Suốt bảy phần trong Chương 5, giọng-nhịp-điệu thơ ấy tuôn trào như những đợt sóng gối lên nhau không ngơi nghỉ. Đất rung, biển động và lòng người bùng lên sức mạnh sau những nén nhịn, đau thương, mất mát, chuần bị vào trận quyết chiến giành lại độc lập, tự do cho dân tộc với lòng tự trọng và lương tâm tự nguyện: Không bao giờ xương máu phải bơ vơ Với một loạt các biểu tượng của văn hóa dân gian, quả thật, Nguyễn Khoa Điềm đã cho người đọc một cái nhìn thật rõ ràng và đầy xúc động về những người góp phần tạo nên "Đất Nước". Và như vậy, có điều một điều chắc chắn là, khi những tập tục, nếp sống sinh hoạt, lao động của người Việt thành hình thì "Đất Nước có từ ngày đó…" Nội dung chính của bài thơ: Bằng sự trải nghiệm cuộc sống, với một tâm hồn giàu duy tư trăn trở trước lẽ đời, Nguyễn Khoa Điềm đã thức nhận được mẹ là hiện thân của sự vun trồng bồi đắp để con là một thứ quả ngọt ngào, giọt mồ hôi mẹ nhỏ xuống như một thứ suối nguồn bồi đắp để những mùa quả thêm ngọt thơm. Người hướng dẫn chính: PGS.TS. Nguyễn Hữu Chiếm - Trường Đại học Cần Thơ. Thời gian bảo vệ: 8 giờ thứ 7 ngày 12 tháng 11 năm 2022. Địa điểm bảo vệ: Phòng Bảo vệ luận án tiến sĩ ( Phòng họp 3, lầu 2, Nhà điều hành), Khu II - Trường Đại học Cần Thơ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm (tập thơ, 1990) Cõi lặng (tập thơ, 2007) Nguyễn Khoa Điềm là người lao động nghệ thuật rất nghiêm túc, ông luôn khắt khe với những tác phẩm của chính mình. Thơ của ông luôn được định hình theo một phong cách riêng, nét riêng. Hầu hết những tác Theo phong cách của bài thơ Tương tư - Nguyễn Bính. Nắng mưa là chuyện của trời. Thế mà nàng cứ hết lời yêu thương. Thôn Đoài mượn chút mưa vương. Thôn Đông đội nón trên đường che vai. Hàng cau gọi chút nắng mai. Giàn giầu tay níu tay cài nấc thang. Dẫu rằng cách trở l77S. Vũ Văn Sỹ từng nhận xét về hồn thơ này “Nguyễn Khoa Điềm đã thực sự đóng góp vào nền thơ hiện đại một giọng trữ tình giàu chất sử thi, một giọng thơ sôi nổi và cá tính, một cây bút gắn kết được một cách tài hoa giữa vốn sống, vốn tri thức văn hóa và sự mẫn cảm của một tấm lòng trước từng trang giấy”. Minh chứng cho điều đó phải kể đến đoạn trích “Đất Nước” thuộc phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Tác phẩm được sáng tác năm 1971 tại chiến trường Bình Trị Thiên. “Đất Nước” được xem là đoạn thơ hay và độc đáo về đề tài quê hương đất nước của thơ ca Việt Nam hiện đại.` Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích sau “Nhưng em biết không Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” Trích trường ca “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm Từ đó bình luận về phong cách thơ trữ tình – chính luận của tác giả Nguyễn Khoa làm​ Giai đoạn những năm 1945-1975 là giai đoạn chứng kiến sự ra đời của biết bao tác phẩm xuất sắc viết về đề tài đất nước. Trong đó nổi bật có Nguyễn Đình Thi với một đất nước đau thương mà anh dũng trong thi phẩm “Đất nước”, có một Tạ Hữu Yên với hình tượng đất nước buồn xót xa "thon thả giọt đàn bầu...đau nỗi đau người mẹ ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ" trong “Đất nước tôi”, một Chế Lan Viên với hình tượng đất nước trầm ngâm, lắng đọng thấm đượm hơi thở dân tộc trong “Thời sự hè 72 - Bình luận”... Và ấn tượng thay, lại có một Nguyễn Khoa Điềm với hình tượng đất nước mang âm hưởng sử thi, bắt nguồn từ những huyền thoại, một đất nước có quá trình hình thành, lớn lên và tồn tại, một đất nước của nhân dân và bắt nguồn từ nhân dân. Có thể nói “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm mà tiêu biểu đoạn trích “Nhưng em biết không … Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc. Đó còn là một minh chứng cho phong cách thơ trữ tình - chính luận đặc sắc của tác giả Nguyễn Khoa Điềm. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ những năm chống Mĩ, với phong cách thơ giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc trữ tình - chính luận. Vũ Văn Sỹ từng nhận xét về hồn thơ này “Nguyễn Khoa Điềm đã thực sự đóng góp vào nền thơ hiện đại một giọng trữ tình giàu chất sử thi, một giọng thơ sôi nổi và cá tính, một cây bút gắn kết được một cách tài hoa giữa vốn sống, vốn tri thức văn hóa và sự mẫn cảm của một tấm lòng trước từng trang giấy”. Tấm lòng nhà thơ có khi nào nguôi yên trước vận mệnh dân tộc, mỗi lần đặt bút viết là mỗi lần trái tim cuộn trào tình cảm thiết tha cùng sự suy tư, trăn trở, triết luận chặt chẽ và thuyết phục. Minh chứng cho điều đó phải kể đến đoạn trích “Đất Nước” thuộc phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Tác phẩm được sáng tác năm 1971 tại chiến trường Bình Trị Thiên. “Đất Nước” được xem là đoạn thơ hay và độc đáo về đề tài quê hương đất nước của thơ ca Việt Nam hiện đại. Độc đáo ở chỗ nhà thơ đã tiếp cận đất nước từ nhiều phương diện nhưng nhất quán trong tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Khẳng định, ngợi ca vai trò của nhân dân trong quá trình bảo vệ và dựng xây đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến những trang thơ thấm thía lòng người. Trong tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước trước tiên là của những con người vô danh nhưng tươi đẹp vô ngần. Chiêm nghiệm về đất nước từ phương diện lịch sử, nhà thơ khẳng định vai trò lớn lao của nhân dân “Nhưng em biết không Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước” Như một câu chuyện thủ thỉ tâm tình giữa “anh” và “em”, lời thơ nhẹ nhàng thấm thía trong ta bước đi của thời gian với sự “sinh ra” và “lớn lên” của đất nước mình. Ở đó, “anh” kể “em” nghe câu chuyện về “họ” - những con người “giống ta lứa tuổi”, vô danh thôi nhưng lại góp công sức lớn lao để “làm ra Đất Nước”. “Sống” và “chết” chính là những bình diện quen thuộc của mỗi con người, làm nên một cuộc đời. Nhân dân được đặt giữa hai bình diện ấy, cả “anh” và “em” cũng vậy. Nhưng sống như thế nào cho thật sự có ý nghĩa, đấy mới là điều đáng quan tâm. Và nhân dân đã sống thật “giản dị và bình tâm”, họ cứ thuần phác, đơn sơ, cần cù làm lụng sau lũy tre làng, gắn bó thân yêu với những “ruộng đồng gò bãi” từ đời này sang đời khác, không đòi hỏi, không cầu kì, không tính toán thiệt hơn. Họ cứ “lặng lẽ gánh vác phần người đi trước để lại” rồi lại “dặn dò con cháu chuyện mai sau”. Để đến khi giã biệt cuộc đời bằng cái chết bình thản trong dòng chảy vĩnh hằng của thời gian, năm tháng. Đó là một cuộc sống và cái chết thật sự ý nghĩa. Ý thơ “Họ đã sống và chết / Giản dị và bình tâm” nghe sao mà nhẹ nhàng, thanh thản, giản đơn như một lẽ thường tình khi nhắc về nhân dân. Bình thường nhưng rất đỗi phi thường, giản dị mà hết sức cao cả, mộc mạc mà trở nên kì vĩ, chính nhân dân đã tạo dựng, gìn giữ đất nước trải qua bao thời đại “Và cứ thế nhân dân thường ít nói Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”“Không phải truyền thuyết” - Thanh Thảo​ Cứ thế, nhân dân sống cuộc đời giản dị, hồn hậu. Và cứ thế, nhân dân quật khởi trở thành những anh hùng. Chính những con người đó đã làm nên đất nước. Điểm mới của Nguyễn Khoa Điềm trong cái nhìn về đất nước qua thời gian lịch sử là đã thấy được vai trò không thể thay thế của những con người bình dị, vô danh mặc dù “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng chính họ mới là người “làm nên Đất Nước muôn đời”. Nếu chỉ dừng lại ở phương diện lịch sử hay phương diện địa lí thì chưa thể có một khái niệm hoàn chỉnh về đất nước. Do đó tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm đã được triển khai trên bình diện thứ ba, bình diện văn hóa, cốt cách tâm hồn dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm không khai thác khía cạnh văn hóa theo hướng liệt kê những danh nhân Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, .... mà tác giả đã tìm đến với những giá trị văn hóa của nhân dân, đó là vẻ đẹp của tâm hồn người Việt “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái” Nhân dân đã có công bảo vệ và truyền lại cho con cháu đời sau những giá trị vật chất, tinh thần, giúp hình thành và gìn giữ những giá trị đáng quý của đất nước. Điệp từ “họ” cùng với cách nói “họ giữ – họ chuyền – họ truyền – họ gánh…” cho thấy được sự đóng góp tích cực của nhân dân vì sự phát triển của đất nước. Chính nhân dân mang đến giá trị vật chất là hạt lúa ta trồng qua bao đời, là ngọn lửa chuyền qua năm tháng sưởi ấm bao căn bếp, là nguồn thủy nông, vườn ruộng dồi dào cho con cháu đời sau “trồng cây hái trái”. Không chỉ vậy, họ còn mang đến những giá trị tinh thần quý báu họ “truyền giọng điệu mình cho con tập nói”, bảo vệ ngôn ngữ dân tộc, họ để lại phong tục, tập quán “gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”. “Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa Óng tre ngà và mềm mại như tơ.”Lưu Quang Vũ​ Cội nguồn văn hóa chưa phải là những gì thiêng liêng, cao cả, mà trong tư tưởng của nhà thơ, cội nguồn văn hóa trước tiên bắt nguồn từ chính lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân, từ những gì giản dị và thân thuộc nhất như “giọng điệu”, “tên xã tên làng”... Không chỉ vậy, nhân dân còn tạo dựng chủ quyền và truyền cho thế hệ sau truyền thống yêu nước và đánh giặc. Nhân dân là những người không tiếc máu xương, sẵn sàng đứng lên bảo vệ đất nước trước những biến động lịch sử và hiểm họa xâm lăng “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại” Dân ta có truyền thống đánh giặc ngoại xâm từ bao đời nay, hết giặc Tàu 1000 năm lại đến giặc Tây 100 năm. Ta lại lật đổ chế độ phong kiến, đánh đuổi phát xít Nhật để đưa nước Việt Nam đi đến độc lập thống nhất. Và hôm nay đây, trong chính thời khắc bản trường ca này ra đời, ta đang chống lại đế quốc Mĩ xâm lược, lời thơ lại càng giục giã và khí thế hơn. Và sức mạnh nhân dân sẽ là cơn sóng lớn để nhấn chìm bè lũ bán nước và cướp nước ấy “Sức nhân dân xẻ núi lấp sông Mồ hôi mặn nhòe bàn tay máu ứa Con đường mở qua lòng dân rộng mở Đường vươn dài, dân trải tấm lòng che…” Nguyễn Trọng Tạo Trận chiến ấy sẽ chiến thắng trong nay mai để mãi mãi “Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” Câu thơ như một chân lý được khẳng định rõ ràng với sự nhắc lại hai lần mệnh đề “Đất Nước của Nhân dân”. Đến đây, cảm xúc dồn nén, suy ngẫm sâu xa đã bật lên thành vần, thành điệu, thành chân lý muôn đời. Câu thơ kết tinh tư tưởng của toàn bộ bản trường ca, tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” mà mỗi khi nhắc đến bạn đọc lại bồi hồi nhắc nhớ những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Chỉ với hai câu thơ, một mệnh đề ngắn gọn nhưng nhà thơ đã xác lập một tư tưởng quan trọng đã trở thành chân lý về cội nguồn, bản chất và động lực của đất nước. Từ đó, mỗi chúng ta nhận thức được sợi dây gắn kết bền chặt giữa phần đời mỗi người với vận mệnh của cả đất nước, dân tộc, cảm nhận được vai trò và trách nhiệm của bản thân trong công cuộc bảo vệ, xây dựng đất nước. Chưa dừng lại tại đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao. Ca dao chính là diện mạo tinh thần, là nơi lưu giữ đời sống tâm hồn, tình cảm của nhân dân qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn ra từ kho tàng thơ ca dân gian ba nét đẹp tiêu biểu nhất của tâm hồn Việt, bản sắc Việt thật say đắm trong tình yêu Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”, quý trọng tình nghĩa “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” và kiên trì, bền bỉ trong đấu tranh “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy / Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. Truyền tải những ý niệm sâu sắc đó, Nguyễn Khoa Điềm chọn sử dụng thể thơ tự do mới mẻ kết hợp cùng chất liêụ văn hóa và văn hoc dân gian thân thuộc. Cảm xúc thơ chân thành, tha thiết, giọng điệu tâm tình cùng hệ thống ngôn từ, hình ảnh vừa gần gũi quen thuộc vừa mang tính khái quát đã đem đến những trang thơ đặc sắc, hài hòa giữa chất chính luận và chất trữ tình, ngọt ngào mà nhẹ nhàng lắng sâu trong tâm hồn bạn đọc bao thế hệ. Đoạn trích trên đã thể hiện sự kết hợp nhuần nhị giữa hai yếu tố trữ tình và chính luận trong hồn thơ tác giả. Nguyễn Khoa Điềm với giọng thơ giàu suy tư, vừa dạt dào chất trữ tình vừa sâu lắng chất chính luận đã ghi dấu một phong cách thơ độc đáo giữa làng thơ chống Mĩ biết bao phong cách đa dạng. Chất trữ tình nằm trong xúc cảm cá nhân được bộc lộ trong thơ, thể hiện ở lối thơ tâm sự ngọt ngào đằm thắm giữa “anh” và “em”, thể hiện ở chất dân gian với những hình ảnh thân thuộc, gần gũi, gợi cảm, là những “hạt lúa”, “hòn than”, “con cúi”, là “giọng điệu”, “tên xã tên làng”,... vốn luôn hiện hữu quanh ta hàng ngày nay được đưa vào trong thơ trở thành hình ảnh giàu biểu cảm và ý nghĩa. Kết hợp với đó là chất chính luận thể hiện ở chiều sâu suy tư và cảm nhận của tác giả về tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, gắn vận mệnh đất nước với số phận, trách nhiệm của những con người bình dị vô danh. Đó là một quan điểm có tính thời sự, lớn lao nhưng cũng vô cùng bức thiết trong bối cảnh chiến tranh và cả trong thời kì hòa bình. Phong cách thơ trữ tình - chính luận cứ thế được thể hiện đặc sắc và rõ nét ở cả nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ. Nhìn nhận Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm từ sự kết hợp giữa hai yếu tố chính luận và trữ tình đã đem đến cho người đọc một góc nhìn mới mẻ về đoạn thơ nói riêng và bản trường ca nói chung. làm cho tác phẩm có nội dung về vận mệnh Tổ quốc, khơi dậy ý chí đồng bào nhưng lại hết sức uyển chuyển, không phải lời kêu gọi giáo điều nhưng có sức tác động mạnh mẽ. Đây cũng là sáng tạo trong phong cách nghệ thuật nổi bật của tác giả ở đoạn trích này nói riêng và thiên trường ca “Mặt đường khát vọng” nói chung. Hình tượng đất nước không phải lần đầu tiên xuất hiện trong thi ca, nhưng cách lý giải về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm lại đem tới cho bạn đọc sự thú vị đến bất ngờ. Đó là hình ảnh của một đất nước gần gũi, dung dị, giống như hình ảnh của những con người đã làm ra, dựng xây và phát triển - nhân dân. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân" cũng không phải là tư tưởng lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam, nhưng đây lại là tác phẩm cho người đọc thấy được tư tưởng về đất nước của nhân dân chân thực và gần gũi nhất. “Họ đã sống và chết / Giản dị và bình tâm / Không ai nhớ mặt đặt tên / Nhưng họ đã làm nên đất nước...” Những lời ca ấy, thế hệ sau này sẽ hát hoài, hát mãi và khắc thật sâu trong trái tim, không chỉ bởi sự chân thành từ trái tim tác giả với đất nước mà còn bởi một phong cách thơ độc đáo mang đậm tính trữ tình – chính luận của Nguyễn Khoa Điềm. Thơ Nguyễn Khoa Điềm ❤️️ Trọn Bộ Những Bài Thơ Hay Nhất ✅ Cùng Tìm Hiểu Những Áng Thơ Hay Về Đất Nước, Miền Quê, Thiên Nhiên Của Nhà Thơ Giới Thiệu Về Nhà Thơ Nguyễn Khoa ĐiềmĐất Nước Thơ Nguyễn Khoa ĐiềmPhong Cách Thơ Nguyễn Khoa ĐiềmThơ Nguyễn Khoa ĐiềmTiểu Sử Nhà Thơ Nguyễn Khoa ĐiềmThơ Nguyễn Khoa Điềm Có Sự Kết Hợp GiữaNhà Thơ Nguyễn Khoa Điềm Còn Sống Không Giới Thiệu Về Nhà Thơ Nguyễn Khoa Điềm Một vài thông tin về Nhà Thơ Nguyễn Khoa Điềm ngắn gọn và đầy đủ nhất ❣️ Đôi nét về tác giả Nguyễn Khoa Điềm Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943Quê quán thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điềm, tỉnh Thừa Thiên-Huế trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạngNăm 1955, Nguyễn Khoa Điềm ra Bắc học tại trường học sinh miền NamSau khi tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, ông về Nam hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên thành phố, xây dựng cơ sở cách mạng, viết báo, làm thơ..Sau ngày thống nhất đất nước, ông tiếp tục hoạt động chính trị và văn nghệ ở Thừa Thiên – HuếNăm 2000, ông được nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuậtNguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, cứu nướcTác phẩm chính Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, Thơ Nguyễn Khoa Điềm, Cõi lặng 🌻 Ngoài Thơ Nguyễn Khoa Điềm 🌻 Cảm nhận Thơ Tình Cuối Mùa Thu Xuân Quỳnh Gửi tặng đến bạn đọc bài thơ Đất Nước thơ Nguyễn Khoa Điềm Đất nước – Thơ Nguyễn Khoa Điềm Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồiĐất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kểĐất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặcTóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo, cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàngĐất Nước có từ ngày đó… Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầmĐất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”Thời gian đằng đẵngKhông gian mênh môngĐất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim vềNước là nơi Rồng ởLạc Long Quân và Âu CơĐẻ ra đồng bào ta trong bọc trứngNhững ai đã khuấtNhững ai bây giờYêu nhau và sinh con đẻ cáiGánh vác phần người đi trước để lạiDặn dò con cháu chuyện mai sauHằng năm ăn đâu làm đâuCũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ TổTrong anh và em hôm nayĐều có một phần Đất NướcKhi hai đứa cầm tayĐất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắmKhi chúng ta cầm tay mọi ngườiĐất nước vẹn tròn, to lớn Mai này con ta lớn lênCon sẽ mang đất nước đi xaĐến những tháng ngày mơ mộngEm ơi em Đất Nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó san sẻPhải biết hoá thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất Nước muôn đời… Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sông ta… Em ơi emHãy nhìn rất xaVào bốn ngàn năm Đất NướcNăm tháng nào cũng người người lớp lớpCon gái, con trai bằng tuổi chúng taCần cù làm lụngKhi có giặc người con trai ra trậnNgười con gái trở về nuôi cái cùng conNgày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánhNhiều người đã trở thành anh hùngNhiều anh hùng cả anh và em đều nhớNhững em biết khôngCó biết bao người con gái, con traiTrong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất NướcHọ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồngHọ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúiHọ truyền giọng điệu mình cho con tập nóiHọ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dânHọ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái tráiCó ngoại xâm thì chống ngoại xâmCó nội thù thì vùng lên đánh bạiĐể Đất Nước này là Đất Nước Nhân dânĐất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoạiDạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lộiBiết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâuÔi những dòng sông bắt nước từ lâuMà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hátNgười đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thácGợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôiNgười dạy ta nghèo ăn cháo ăn rau Biết ăn ớt để đánh lừa cái lưỡiCái cuốc, con dao, đánh lừa cái tuổiChén rượu đánh lừa cơn mỏi, cơn đauCon nộm nang tre đánh lừa cái chếtĐánh lừa cái rét là ăn miếng trầuĐánh lừa thuồng luồng xăm mình xăm mặtĐánh lừa thằng giặc là chuyện Trạng QuỳnhNhưng lạ lùng thay, nhân dân thông minhKhông hề lừa ta dù ca dao, cổ tích Ta lớn lên bằng niềm tin rất thậtBiết bao nhiêu hành phúc có trên đờiDẫu phải khi cay đắng dập vùiRằng co Tấm cũng làm về hoàng hậuCây khế chua có đại bàng đến đậuChim ăn rồi trả ngon ngọt cho taĐất đai cỗi cằn thì người sẽ nở hoaHoa của đất, người trồng cây dựng cửaKhi ta đến gõ lên từng cánh cửaThì tin yêu ngay thẳng đón ta vàoTa nghẹn ngào, Đất Nước Việt Nam ơi!… Ta lớn lên khao khát những chân trờiNhững mảnh đất chân mình chưa bén đượcNhững biển khới chứa mặt trời đỏ rựcNhững ngàn sao trôi miết giữa màu xanhÔi có cách gì ta được ngắm những bình minhBuổi vũ trụ chớp bùng nên sự sốngVà ánh sáng trên chiếc xe vàng chuyển độngBỗng một ngày ấm áp kể ta ngheVề những con ngươi của thiên thể xa xôiMuốn bầu bạn với con người Trái đấtÔi phút đó ta vùng lên ngây ngấtMuốn ôm choàng hết tất cả trời mâyTrái tim tay nặng trĩu những mê saySẽ gieo xuống làm âm vang mặt đất… Nhưng em ơi, cái điều trông đợi nhấtVẫn những gì có thể có hôm nayTừ hôm nay, trên mảnh đất ta đâyTa nắm nó như sợi mây vững chãiRồi rút dần từ cánh rừng vĩ đạiCủa cuộc đời hằng nuôi dưỡng chúng taVà diệu kỳ thay! Ta bỗng loá bất ngờTa đã thấy cuộc đời vô hạnGiữa đất đai, nhân dân, bè bạnTa tìm ra ánh sáng của Con NgườiNhững Con Người làm sông núi sáng tươi… Những địa danh trôi từ thuở xa xôiTrôi bằng máu và trôi bằng nước mắtĐã đọng lại thành tên ngươi, tên đấtBao năm rồi suốt mặt pha, triền sôngNhưng không có con người nào đã trôi hết sâu nông Bằng những người dân miền Tây nghèo khổĐây không biển thì rừng làm biển cảMột biển xanh với cồn sóng ngút trờiHọ bám mình vào tấm rẫy nổi trôiRồi gục chết dưới màu xanh vĩnh viễnCuộc đời họ mênh mang bất địnhChỉ đó nghèo bám riết lấy màu daÔi mây trắng ngang đầu, gió dưới rừng xa Đất Nước ở đâu? Đâu là Đất Nước?Kờ-ruồng Kù tiệt!Tiếng suối hay tiếng chim?Tiếng người hay tiếng chiêng?Tiếng đá lăn, cây đổ?Thác gào hay đá nổ?Kờ-ruồng Kù tiệt!Kờ-ruồng Kù tiệt!Đất Nước! Đất Nước!Đất Nước trên miệng ta rồiTrong tim ta mangTrên chân ta bướcĐất Nước! Đất Nước!Cả núi rừng thét lên đồng loạt!Đó là năm dưới thời giặc PhápChúng hất hàng chục chòi Ta-ôi ra khỏi bản đồĐẩy họ vào những cánh rừng xanh không Tổ quốc Đoạn tiếp theo bài thơ Đất Nước – Thơ Nguyễn Khoa Điềm Chính lúc đóLửa đã cháy lên!Lửa ngàn đời từ mỗi bếp cháy lên!Đốt nhà! Ta đốt hết nhà!Địu con lên lưng vác giáo lên vaiĐánh trăm chiếc cồng xuyên thủng núiMắt người già quắc lên cho đàn trẻ theoTa đạp rừng nhằm phía Đông bươn tới!Ôi ta về nguồn! Về nguồn!Kờ-ruồng Kù tiệt!Kờ-ruồng Kù tiệt!Đất Nước! Đất Nước!Ôi ta về theo Đất NướcTa không chịu làm người dân không Đất Nước Không Việt NamBiển rừng gào lên như muốn níu chân taBiển rừng không cuốn ta vào vô định nữaTa làm con suối rừng biết tìm sông mà tớiTa làm con nai biết tìm lối mà vềMặt trời mọc, mặt trời chỉ hướngÔi lòng ta có mặt trời soi sángTa trở về Đất Nước Tổ tiên ơi!…Và hôm nayKhi bom thằng Mỹ tớiCắt ngang những nói nhọn nhà làngChôn những nhà mồ vào đất bụiTa đánh lên tiếng cồngTa gọi vang rừng vang úi Đất Nước!Ta đánh lên tiếng chiêng cho cả Bắc Nam cùng nghe được!Nghe tấm lòng người Tà-ôi, Pa-kô, Cà-tuThuỷ chung Đất NướcRồi ta quăng cồng dưới suốiRồi ta chủ chiêng dưới cây Ta điTrong âm vang yêu nướcTa đi với rựa và tênRựa ta mài vào gỗ thành nươngTên ta gài xuống đất thành bẫyThằng Mỹ vào thì xác mà để đấy!Thằng nguỵ vào thì xác nó đừng chôn!Cho cháu con ta, ai sau nữa, được nhìn!Ôi Đất Nước đầu mũi daoĐất Nước đầu mũi tênĐất Nước đầu tiếng chiêngĐất Nước là ngọn lửaĐất Nước tràn lên từng đỉnh núiĐất Nước thiêng liêng… Đêm nay ta lên hết mặt sông Hồng!Nước đánh động dưới chân ta rồiĐất NướcĐang gọi ta từng hồi trống thúcĐất Nước xoáy nhào tim taKý ứcĐất Nước muôn đời đang vặn mình, đang sôi… Chúng ta là người dân miền NamNhung tôi biết anh gốc gác họ Hoàng Kinh BắcCòn tôi họ Nguyễn tỉnh ĐôngHuyết thống ta trôi trên bán đảo âm thầmHôm nay bỗng réo sôi từng hồi từng trậnKhi cơn lũ đang lao qua châu thổ sông Hồng! Ta lên hết mặt đê sông Hồng!Dẫu chỉ bằng tâm tưởngỞ đâu đó ta không còn nhớ nữaSao tổ tiên ta cầm cuốc, cầm càyCầm giáo, cầm khiên và cất tiếng hát lưu đàyĐể xa châu thổ từ độ ấy… Ôi những gốc tre tổ tiên ta từng thấyVẫn còn nguyên trên bờ bãi sông HồngLúa lên xanh trên những cánh đồngCũng có tay cha ông in vào trong lúaSâu thẳm quá cho đến từng mái rạCũng có dáng một ngày cha ông khăn gói bước ra Ôi những gì Người đã ước mơThì bây giờ cũng thơm lá thơm hoaNên hôm nay chúng taPhải lên hết đê sông Hồng mà giữ lấy! Đất NướcPhải chặt tre, đóng cọc mà giữ lấy!Đất NướcPhải đan phên, đổ đất mà giữ lấy!Đất NướcPhải phá nhà, chặt cây vườn vác ra mà giữ lấy!Đất NướcPhải neo người xuống sông, chặn nước mà giữ lấy!Đất NướcĐất Nước không thể trôi được!Máu xương, mồ mả tổ tiên đã trôi điNhững dòng họ đã trôi điNhưng hôm nay không thể nào trôi được! Đất NướcĐang gầm lên trong sóng gió ngất trờiHàng chục triệu thước khối nước đang lao vào mặt đấtCuộc xáp trận của vật chất muốn đè vật chấtCủa thiên nhiên đè xuống con ngườiTa vươn mình gánh lấy đất đaiTa ném máu xương ta vào làm vật cảnTất cả ý chí và sinh mạngPhải được vai dựa vào vai, đùi gối lên đùiĐẩy con đê sông Hồng tiến lên phía trướcThắng giặc Mỹ hay thắng giặc nướcĐều nhất tề xung phong! Sơn Tinh đang nhìn ta lo lắng đăm đămCả nhân loại đang nhìn ta cổ vũCon cháu ta mai sau hối hả lật từng trang lịch sửNgợp trước con đê sông Hồng lên cao, lên cao…Chào 4000 năm! Con đê như một cánh tay caoCủa thế trận những người làm chủLàm chủ cuộc đời và lướt từng đỉnh lũBảo vệ miến Bắc, chi viện miền Nam! Mẹ Việt Nam ơi!Đêm nay con về gối đầu trên cánh tay của MẹÔi cánh tay rắn rỏi, dịu hiềnLấm láp bùn lầy nhưng ấm áp niềm tinĐó là hai cánh đê sông Hồng của MẹMẹ phả vào mặt con nồng nàn mùi sữaCủa những đồng xa nguyên vẹn như mùaCon đã đi xa từ thuở ấy đến giờNay bọn Mỹ còn cắt chia Đất NướcNhưng đêm đêm con trở về thân thuộcNgủ trên cánh tay Mẹ hiền từ cay đắng nuôi conTrong tháng năm chớp bể mưa nguồnRu con lớn và làm người thương Mẹ… Đã có một thờiAi muốn vào châu Mỹ La-tinhĐến trước vịnh Ca-ra-ipSẽ không cần dùng địa bànCứ nhìn những xác da đenTrôi bập bềnh trên biểnNhững xác da đen chỉ hướngĐưa anh vào “mảnh vườn sau” của chủ nghĩa thực dân Đã có một thờiAi muốn đến Việt NamCứ theo gót những đàn ngựa phương BắcHay chữ thập trên tàu buôn nước PhápCác bạn sẽ tìm ra Việt NamBởi vì ngày ấyNước chúng tôi chưa có trên bản đồ thế giớiNgôn ngữ loài người chưa biết hai chữ “Việt Nam”Và dẫu bạn đến đâyChỉ có những tên đô hộ phủ toàn quyềnĐứng ra tiếp bạnNhưng hôm nayBạn hãy đi theo những đoàn đi bộ tuần hànhMang những lá cờ sao vàngỞ Pa-ri, ở Mát-xcơ-va hay Xtốc-khômBạn sẽ đến được Việt Nam tôi đó Bởi vì Việt Nam hôm nayNằm giữa lòng thế giớiNằm trong tim nhân loạiNằm trên con đường dẫn ta tới giá trị Con Người…Bởi vì Việt Nam hôm nayLà Việt Nam chống MỹChúng tôi gánh trên vai hành trang nặng nề của thế kỷĐể bạn bình tâm bước vào ngưỡng cửa Tự do… Tiếp tục bài Thơ Đất Nước – Thơ Nguyễn Khoa Điềm Bạn đến đâyĐã có Bác HồVà Nhân dân tôi sẵn sàng đón bạnDẫu Người đi vắngBạn có thể đến nhà Người thăm một khóm hoaRồi cùng nhân dân tôi trò chuyệnNhân dân tôi đẩy tình yêu mếnĐã được Người dặn dò trước phút đi xa… Bạn hỏi vì sao cúng tôi yêu quý Bác HồBởi vì Người là Người đầu tiênVề với Đất Nước chúng tôiMang chủ nghĩa Mác-Lê ninChứa trong trái tim yêu nước nhấtKhi Người đặt tay lênHòn đất Việt Nam đầu biên giớiThì từ đóĐất không phải là đất nữaĐất là chiến hàoĐất là cạm bẫyĐất là hoa tráiNuôi chúng tôi, che chúng tôi cầm súng lên đường! Có Người, chúng tôi có lại Hùng VươngCó lại dáng búp sen nghìn năm của chùa Một CộtVà những búp sen miền Nam tận bùn lầy Đồng ThápCó Người, cũng đã thành thơCó Người, mỗi mũi tên đồng Cổ LoaKhông chịu vùi dưới đấtKhông nằm yên trong viện bảo tàngChúng bay lên xé gió thời gianMở hết đường bay qua thăng trầm lịch sử Để cắm vào đầu giặc Mỹ!Có Người, pho Bồ Tát nghìn tay nghìn mắtBiết toả hào quang từ hàng chục cánh tayCó Người, pho Bồ Tát triều Lý chỉ còn đầuVẫn nguyên vẹn trong lòng chúng tôi nhờ búi tóc thời vua Hùng để lạiVà pho Kim Cương trên đôi chân vững chãiDẫu mất đầu vẫn giữ một dáng đứng Việt NamĐấy, Đất Nước chúng tôi đổ vỡ biết bao lầnCả những pho từ bi cũng không ngoài hoạn nạnNhưng có Người, những cái mất đi phải trả về hình dángQuá khứ được nhìn từ đôi mắt Hôm Nay Và Hôm Nay từ đôi mắt Ngày MaiChúng tôi sống bằng Tương lai một nửaBằng tình yêu vô hạn những con ngườiNhư Hôm Nay nhìn Đất Nước cắt đôiChúng tôi đã thấy ngày hàn gắn… Bởi vì Người là người đầu tiênYêu miền Nam trong trái tim mìnhYêu tuổi trẻ miền Nam 25 nămChưa có được ngày hạnh phúc Mà Người dạy chúng tôiHãy bền gan đánh giặcDẫu phải chết cũng không khuất phục“Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do!” Chúng tôi là con cháu Bác HồCó nghĩa là chúng tôi giống BácNhững gì còn non nớtChúng tôi học tập để sống, chiến đấu như Người Bởi vì Người là đất nước của chúng tôiMỗi sợi tóc trắng của Người đều ghi ngày gian khổ nhấtCủa Đất Nước, những năm dài đánh giặcĐôi dép của Người mòn vẹt gótNgười đã đi những ngả đường Đất Nước hành quân Trái cà Người ănCũng là trái cà nuôi người anh hùng đầu tiên – Thánh GióngCây gậy Người cầmCũng có thể tìm trong trăm ngàn gậy vượt Trường SơnÝ chí của NgườiÝ chí toàn dân tộcLý tưởng của NgườiSự sống chúng tôi mang…Hồ Chí Minh – Việt NamBạn và tôi cùng gọiHồ Chí Minh – Việt Nam Em nghe không trái thị đã rơi xuống tay NgườiTrái không chỉ rơi vì sức hút đất đaiTrái rơi vì tay Người ao ướcKhi trái chạm vào tay Người và Người ấp ủThì lừng hương tay Người và Người ấp ủThì Lừng hương và cô Tấm bước raĐi trả thù và sống Tự do…Không rơi xuống bùn, ôi trái thị quê taĐể bùn lấm và thành bùn vạn kiếpRơi vào tay Người, đó là định luậtCủa đấu tranh và nhân nghĩa Việt Nam Tuổi trẻ ơi trong sương gió tháng nămTa đã lớn rồi, chín đầy hy vọngHãy ngã xuống tay Nhân dân, hỡi sắc vàng cảu nắngHỡi hương thơm của nồng mặn mồ hôi.. Hãy ngã vào tay Nhân dân, đừng vãi đừng rơiĐừng tự do, đừng hoài nghi nữaHãy yêu Nhân dân và nghe Người nhắn nhủHãy tìm sức mạnh mình trên cơ thể Nhân dânNhân dân đang đi lên đội ngũ trùng trùngThế vô tận của nghìn năm giết giặcLửa đã cháy hồng hào mặt đấtMùa chín tình yêu, mùa chín hận thù! Không bao giờ xương máu phải bơ vơÔi sông núi nghi ngàn dặm đấtCó nghe tiếng chúng con Xin có mặtNguyện làm người xung kích của quê hươngĐây tiếng hát chúng conTiếng hát xuống đường! 🌻 Ngoài Thơ Nguyễn Khoa Điềm 🌻 Xem thêm Phân Tích Tây Tiến Phong Cách Thơ Nguyễn Khoa Điềm Tìm hiểu về Phong Cách Thơ Nguyễn Khoa Điềm có gì đặc biệt nhé Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm thời kì chống Mỹ cứu nước là cảm hứng lớn về đất nước và nhân dân anh hùng. Sự thống nhất độc đáo của phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm nằm ở cảm hứng hiện thực thời đại, ở những chủ đề quen thuộc, ở phương diện thể hiện cái tôi trữ tình phong phú đa dạng, với lớp ngôn từ, hình ảnh cảm xúc ẩn sau bề mặt câu chữ một cảm quan lịch sử văn hoá sâu sắc độc đáo. Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm yêu nước không đơn giản chỉ là nhiệt tình hăng hái chiến đấu và căm thù giặc mạnh mẽ. Với Nguyễn Khoa Điềm tình yêu đất nước làm sống dậy trong trang thơ lịch sử bốn ngàn năm hào hùng của dân tộc với những chiến công dựng nước và giữ nước của cha ông. Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự đồng hiện của những gì gần gũi nhất, thân thương nhất của mỗi con người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai, trong thời gian và không gian, trong lịch sử và truyền thống văn hoá Tiếng thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ nói lên những suy nghĩ cảm nhận của tuổi trẻ trong chiến tranh, về sự lạc quan hay cái nhìn nghiêm túc thành thật, thậm chí trần trụi về những mất mát… mà còn bộc lộ những suy nghĩ hiện thực sâu sắc hơn rất nhiều. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện lòng yêu nước qua việc tranh luận về tuổi trẻ, về nhân sinh quan để dựng lại cả quá trình “tìm đường” và“nhận đường” của tuổi trẻ đô thị miền Nam về với con đường cách mạng của dân tộc, nhân dân. Tài năng và cá tính sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm còn bộc lộ trong những phương diện nghệ thuật đó là thi pháp biểu hiện mang phong cách riêng, từ giọng điệu trữ tình giàu chất chính luận, đến việc xây dựng chất liệu thơ giàu chất liệu hiện thực, chất liệu văn hoá và giàu tính liên tưởng. Từ việc sử dụng những tín hiệu thẩm mỹ vừa truyền thống vừa hiện đại đến việc sử dụng linh hoạt thể thơ tự do với những cung bậc khác nhau của cảm xúc với một vốn từ ngữ giàu có vừa dân dã vừa mang tính văn hoá thời đại. 🌻 Ngoài Thơ Nguyễn Khoa Điềm 🌻 Chia sẻ Bài Thơ Thuyền Và Biển Hay Thơ Nguyễn Khoa Điềm Tham khảo những áng Thơ Nguyễn Khoa Điềm hay và ấn tượng trong lòng người đọc Cánh đồng buổi chiều Có một nhà thơ đi mãi vào cánh đồng buổi chiềuLởm chởm gốc rạ sau mùa cấy gặtMùi thơm lúa khoai thân thuộcNói gì, hở tiếng reo cỏ mayMùa thu vừa trở lại? Nhà thơ cúi xuống tìm hạt mồ hôi bỏ quênTrên mặt đấtBao người đã mất, đang cònSống âm thầm sau rặng tre khuất lấpKhông một dấu vếtNhững mặt ruộng nứt nẻ. Chúng ta vẫn bưng bát cơm trắng mỗi ngàyThật đơn giản, hiển nhiên, như hơi thởKhông còn nhớ có bao giọt mồ hôi trên mặt ruộngBao nhiêu bùn, bao nhiêu khổ đauKhi mồ hôi trở nên quá rẻKẻ ranh ma trở nên quá giàu Đã lâu nhà thơ lại về với cánh đồng làngHít sâu hương thơm no ấmNhận ra trong mỗi khuôn mặt đen sạmNhững tháng ngày bỏ quên Bằng bước chân chậm rãiNhà thơ lặng lẽ nối gót người nông dân đi mãiMặc cho ngôi sao hôm xa ngái dẫn đườngThăm thẳm ngõ quê rơm rạTrái tim lăn tròn êm ả… Anh đợi – Thơ Nguyễn Khoa Điềm Đến sớm một ngàyVượt trước thôi đườngCao hơn thói thườngAnh đợi Đánh đổi một đờiCuối đất cùng trờiAnh đợi Anh tìm emTừ cõi hư vôĐến phiên chợ đờiÂm dương xanh thẳmThương nhớ bồi hồiAnh đợi Vứt hết sách vởHai tay trụi trầnNúi cao anh trèoSông sâu anh lộiAnh đi tìm emMây chiều bạc tócThương nhớ lao lungMột thời trận mạcMột thời cấy trồngAnh là hạt thócEm là cánh đồngGieo bao thương nhớVẫn còn mênh mông Còn chăng điều tốtTrong cuộc đời này?Còn bao nồng mặnEm dành đôi ta?Ngàn năm, trăm nămAnh mong, anh đợi. Một ngày xuôi tayĐường xa để lạiAnh còn ngoái lạiNhững lời hôm quaAnh đợi! Lời chào Ta đã đi qua những năm tháng không ngờVô tư quá để bây giờ xao xuyếnBèo lục bình mênh mang màu mực tímNét chữ thiếu thời trôi nhanh như dòng sông… Ta lớn lên bối rối một sắc hồngPhương cứ nở hoài hoà như đếm tuổiNhư chiều nay, một buổi chiều dữ dộiTa nhận ra mình đang lớn khôn… Biết ơn những cánh sẻ nâu đã bay đến cánh đồngRút những cọng rơm vàng về kết tổĐá dạy ta với cánh diều thơ nhỏBiết kéo về cả một sắc trời xanhBiết ơn mẹ vẫn tính cho con thêm một tuổi sinh thành “Tuổi của mụ” con nằm tròn bụng mẹĐể con quý yêu tháng ngày tuổi trẻBuổi mở mắt chào đời, phút nhắm mắt ra đi… Biết ơn trò chơi tuổi nhỏ mê ly“Chuyền chuyền một…” miệng, tay buông bắtNgôn ngữ lung linh, quả chuyền thoăn thoắtNên một đời tiếng Việt mãi ngân nga… Biết ơn dấu chân bấm mặt đường xaNhững dấu chân trần, bùn nặng vếtTa đi học quen dẫm vào không biếtDáng cuộc đời in mãi dáng ta đi… Biết ơn dòng sông dựng dáng kiếm uy nghiTrong tâm trí một nhà thơ khởi nghĩaCao Bá Quát ngã mình trên chiến địaTrăm năm rồi sông vẫn sáng màu gươm… Trăm năm rồi ta đếm bước sông HươngVẫn soi thấy niềm đau và nổi giậnKhuôn mặt trẻ bỗng già trên lớp sóngNgẩng đầu lên, ta thấy mặt quân thù! Cõi lặng – Thơ Nguyễn Khoa Điềm Cõi lặng. Anh soi thấy mặt mìnhVới nỗi buồn trong sạch Cõi lặng. Không tiếng động nào khácTiếng đập trái tim anh Người ơi, tôi yêu người tha thiếtTôi sống với người, chết vì người Cõi lặng. Tôi vượt qua ghềnh thácĐến những miền trong xanh… Đi bên mùa thu Bởi vì em mặc áo vàngTôi muốn em hãy đọc bài thơ Nga ấyĐã rung lên như lửa cháy,Một mùa thu chết tận xa xôiCho tôi sống bồi hồiTrên chân trời rung cảm khác. Và chuyến xeChật chội, gian nanVẫn là cơn gió thổi tôi qua bờ bãiVới nắng tinh khôi, óng ả, tươi vàng… Có lẽTrên những con đườngĐời tôi sẽ trôi quaMãi mãi tôi không còn lung linh màu nắng ấyMột chút mùa thu sách vởMột chút mùa thu qua cửa sổTrên cái gập gềnh bánh xe lăn đi. Và mọi nỗi xôn xao không còn lăn bánh nữaTôi ở lại trên chiếc lá đỏKhi nắng vàng trên áo em khuất xa Bây giờ lật lại trang thơTôi muốn đặt mình trên từng con chữĐể được sưởi dưới mắt em xa vắng vô bờ… Cỏ ngọt Đứng đấy tự bao giờ, bên dòng sông cũCon bò gặm cỏ Chậm rãiMột ít bóng đêm và ít hạt bình minhTừng miếng một,Nhai và thở. Không nghe tiếng người, tiếng xe cộ lại quaBụi bặm một ngày kiếm sốngNó nghe thấy vị ngọt từng cọng cỏ Đầy khao khátNó để lại trong làn sương mỏng ven sôngMùi bất chợt của cỏ dạiChút ẩm ướt của thời gian 🌻 Ngoài Thơ Nguyễn Khoa Điềm 🌻 Chia sẻ Bài Thơ Quê Hương Của Giang Nam Tiểu Sử Nhà Thơ Nguyễn Khoa Điềm Chia sẻ thêm đến bạn Tiểu Sử Nhà Thơ Nguyễn Khoa Điềm, những điều cần biết về nhà thơ Gia đình, Quê hương. Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15 tháng 04 năm 1943 tại thôn Ưu Điềm xã Phong Hòa huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên – Huế. Quê hương Nguyễn Khoa Điềm – dải đất miền Trung cát trắng, nơi đầu sóng ngọn gió đã hứng chịu bao biến động của lịch sử, bao khắc nghiệt của thiên nhiên và bao tấn bom đạn của kẻ thù trong chiến tranh. Nguyễn Khoa Điềm được sinh ra trong một gia đình “Danh gia vọng tộc” có truyền thống yêu nước và hiếu học. Nguyễn Khoa Đăng là một ông quan nội giám có tài yên dân, được dân gian truyền tụng và ôn g cũng chính là ông tổ của dòng họ Nguyễn Khoa ở đất kinh kì mà Nguyễn Khoa Điềm là hậu duệ đời thứ tư. Cụ nội Nguyễn Khoa Điềm từng làm chức quan bố chánh, sau theo phong trào Cần vương rồi từ quan về nhà. Ông nội Nguyễn Khoa Điềm là một nhà nho có tinh thần yêu nước, từng được bầu vào Viện dân biểu Trung kì do cụ Huỳnh Thúc Kháng làm Viện trưởng. Bà nội Nguyễn Khoa Điềm là Nữ sử Đạm Phương, cháu nội vua Minh Mạng. Là người hoàng tộc nhưng bà có tinh thần yêu nước tiến bộ, là tác giả của nhiều cuốn sách và bài báo bênh vực quyền lợi của phụ nữ và trẻ em lúc bấy giờ. Cha Nguyễn Khoa Điềm là Nguyễn Khoa Văn, tức Hải Triều, một chiến sĩ cách mạng, một nhà lí luận văn hoá mác-xít xuất sắc đã chiến đấu và hi sinh cho cách mạng đến hơi thở cuối cùng Sinh ra trong một gia đình văn hoá giàu lòng yêu nước, Nguyễn Khoa Điềm chắc chắn được thừa hưởng những phẩm chất ưu việt của dòng họ ở cả tinh thần yêu nước, cách mạng và truyền thống văn hoá. Nhưng đây chưa phải là những yếu tố quyết định làm nên tài năng và thành công. Chính sự trải nghiệm cuộc sống ở chiến trường, sự sẻ chia với nhân dân những gian nan vất vả, đau thương mất mát mở ra một hiện thực phong phú trước mắt người làm thơ. Sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Khoa Điềm đã không bắt đầu từ phòng văn mà nảy mầm kết trái ở chính nơi đầu sóng ngọn gió của cuộc chiến đấu. Sống hết mình với hiện thực, rung động tận đáy lòng với cuộc sống và phát huy những sức mạnh tiềm tàng của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã lưu tên tuổi của mình vào nền thơ dân tộc. 🌻 Ngoài Thơ Nguyễn Khoa Điềm 🌻 Tham khảo Bài Thơ Sóng Xuân Quỳnh Thơ Nguyễn Khoa Điềm Có Sự Kết Hợp Giữa Tìm hiểu thêm Thơ Nguyễn Khoa Điềm Có Sự Kết Hợp Giữa những điều mới nào nhé Sự kết hợp giữa chất chính luận với chất trữ tình trong đoạn trích Đất Nước trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm Khẳng định ý nghĩa, giá trị của đoạn trích Đất Nước với sự kết hợp giữa chất chính luận và chất trữ tình, đoạn trích có tác động to lớn và sâu sắc đến nhận thức và tình cảm của tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam. Giúp họ nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình để đứng dậy xuống đường đấu tranh góp phần vào cuộc đấu tranh chung của toàn dân tộc. Trong tất cả thơ Nguyễn Khoa Điềm. Một bài thơ được xem là có thiên hướng chính luận khi nhà thơ muốn bộc lộ những quan niệm, tư tưởng chính trị – xã hội của mình và muốn chia sẻ, thuyết phục người đọc về tính đúng đắn của những quan niệm, tư tưởng đó. Trong đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm muốn chia sẻ quan niệm, tư tưởng của ông đất nước thân thương, lâu đời, bền vững và đáng tự hào này là của nhân dân; đồng thời cũng nhắc nhở bổn phận của mỗi người đối với nhân dân và đất nước. Tuy nhiên, thơ trước hết vẫn là trữ tình, là phát biểu cảm nhận, bộc lộ cảm xúc, theo đuổi suy tưởng. Vì vậy, trong đoạn trích Đất Nước, sự kết hợp giữa chính luận và trữ tình vừa là một yêu cầu vừa là một hệ quả tất yếu. Phân tích sự kết hợp giữa chất chính luận và chất trữ tình qua một vài đoạn thơ tiêu biểu trong đoạn trích Đất Nước trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm. Ví dụ ”Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non NghiênCon cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Rõ ràng đây là đoạn thơ thấm đẫm chất trữ tình. Nhà thơ bày tỏ sự trân trọng những cuộc đời, những con người đã hoá thân một cách cao đẹp vào hình hài đất nước. Yếu tố chính luận làm cho nội dung tư tưởng của đoạn trích thêm sâu sắc. Yếu tố trữ tình làm cho đoạn trích có sức lay động, truyền cảm, biến tư tưởng, quan niệm, nhận thức thành cảm hứng nghệ thuật. => Kết hợp hai yếu tố này thực sự không dễ, nhưng tác giả đoạn trích đã làm được cho dù sự kết hợp ấy không phải lúc nào cũng thật nhuần nhị, hài hoà. 🌻 Ngoài Thơ Nguyễn Khoa Điềm 🌻 Tham khảo Phân Tích Bài Thơ Quê Hương Nhà Thơ Nguyễn Khoa Điềm Còn Sống Không Một câu hỏi thường được các bạn học sinh thắc mắc Nhà Thơ Nguyễn Khoa Điềm Còn Sống Không mỗi khi có đề bài phân tích về nhà thơ Giải đáp Năm 1996, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, Nguyễn Khoa Điềm bầu vào Ban Chấp hành Trung ương. Ông là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá X và từ tháng 11 năm 1996 là Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin. Năm 2001, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, Nguyễn Khoa Điềm trở thành Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương 2001 – 2006. Hiện nay, ông đã nghỉ hưu và sống tại Thành phố Huế. 🌻 Ngoài Thơ Nguyễn Khoa Điềm 🌻 Tham khảo Thơ Thế Lữ Chọn Lọc Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước và hiếu học nên những vần thơ của ông đều hướng về tình yêu quê hương, đất nước. Để hiểu thêm và cuộc đời, sự nghiệp của tác giả Nguyễn Khoa Điềm mời các bạn theo dõi bài viết này! Mục lục bài viết 1 1. Giới thiệu về tác giả Nguyễn Khoa Điềm 2 2. Tiểu sử tóm tắt của Nguyễn Khoa Điềm 3 3. Phong cách sáng tác 4 4. Tác phẩm tiêu biểu 5 5. Vinh danh 6 6. Nhận xét về Nguyễn Khoa Điềm và tác phẩm 1. Giới thiệu về tác giả Nguyễn Khoa Điềm Nguyễn Khoa Điềm sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước, hiếu học nên những bài thơ của ông đều hướng về tình yêu quê hương, đất nước. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Là người trực tiếp tham gia chiến đấu với đế quốc Mỹ nên thơ ông rất chân thực, giàu trải nghiệm, đặc biệt là những cảm xúc sâu lắng, mang màu sắc trữ tình. Là người có ý thức và trách nhiệm với đất nước, những vần thơ do ông sáng tác thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của người công dân, người lính đối với đất nước. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15 tháng 3 năm 1943 tại Tỉnh Thừa Thiên Huế, nước Việt Nam. Ông sinh thuộc cung Song Ngư, cầm tinh con Đê Quý Mùi 1943. Nguyễn Khoa Điềm xếp hạng nổi tiếng thứ 44773 trên thế giới và thứ 192 trong danh sách Nhà thơ nổi tiếng. Tổng dân số Việt Nam năm 1943 là khoảng 22,612 triệu người. Nguyễn Khoa Điềm sinh ra tại làng Kiều Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thân sinh ông là chí sĩ Hải Triều, thuộc dòng dõi quan đại thần Nguyễn Khoa Đăng, quê gốc ở An Dương tỉnh Hải Dương, Hải Phòng trước đây. Quê quán Thôn An Cựu, xã Thủy An, TP Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thuở nhỏ Nguyễn Khoa Điềm học ở quê. Năm 1955, ông ra Bắc học Trường Nam học. Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, cùng lứa với Phạm Tiến Duật và Lê Anh Xuân. Sau đó, ông vào Nam hoạt động trong phong trào sinh viên ở Huế; tham gia quân đội, xây dựng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, viết báo, làm thơ,… cho đến năm 1975. Nguyễn Khoa Điềm bị giam ở nhà lao Thừa Phủ. Tết 1968, ông được giải phóng và hoạt động trở lại. Lúc này Nguyễn Khoa Điềm mới bắt đầu làm thơ. Nguyễn Khoa Điềm trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1975. Sau 1975, ông tham gia Đoàn Thanh niên Cộng sản; Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế. Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III. Năm 1994, Nguyễn Khoa Điềm ra Hà Nội, làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin. Năm 1995, ông được bầu làm Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa V. Năm 1996, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Khoa Điềm được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương. Ông là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, từ tháng 11 năm 1996 là Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin. Năm 2001, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Khoa Điềm trở thành Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương 2001 – 2006. Hiện ông đã nghỉ hưu và sinh sống tại TP Huế. 3. Phong cách sáng tác Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Là người trực tiếp tham gia chiến đấu với đế quốc Mỹ nên thơ ông rất chân thực, giàu trải nghiệm, đặc biệt là những cảm xúc sâu lắng, mang màu sắc trữ tình. Là người có ý thức và trách nhiệm với đất nước, những vần thơ do ông sáng tác thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của người công dân, người lính đối với đất nước. Tiêu biểu trong các sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm là bài thơ Đất nước, với giọng điệu thơ đậm đà màu sắc dân tộc, lắng đọng sâu sắc kèm theo những lí giải về tư tưởng của tác giả. Anh đã vẽ nên một “Đất Nước” vĩ đại nhưng không kém phần bình dị, thân thương. Đó là Đất Nước của tất cả chúng ta, bài thơ khẳng định vai trò to lớn của Đất Nước đối với mỗi người. Những vần thơ vô cùng rõ nét đó thể hiện tinh thần yêu quê hương của Nguyễn Khoa Điềm. Đây là một trong những tác phẩm thành công nhất của ông, nó mang lại cho người đọc nhiều niềm tự hào dân tộc. Trong quá trình vận động và phát triển của thơ ca chống Mỹ, đã xuất hiện một hệ thống các nhà thơ trẻ, trong đó có Nguyễn Khoa Điềm. Nhà thơ đã có mặt, đi khắp cuộc chiến và ghi dấu những thành tựu của mình qua đam mê sáng tác. Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm trong thời kỳ chống Mĩ cứu nước là nguồn cảm hứng lớn về đất nước và nhân dân anh hùng. Hệ thống đặc sắc nhất của phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm nằm ở cảm hứng hiện thực thời đại, ở những đề tài quen thuộc, ở cách thể hiện cái tôi phong phú, đa dạng được cất giữ, ở những lớp từ, những hình ảnh cảm xúc ẩn sau bề mặt câu chữ, một ý nghĩa lịch sử và văn hóa sâu sắc độc đáo. Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, lòng yêu nước không đơn giản chỉ là lòng hăng hái xông trận và lòng căm thù giặc mãnh liệt. Với Nguyễn Khoa Điềm, tình yêu đất nước sống lại trong trang sử hào hùng ngàn năm của dân tộc với những chiến công dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự đồng tồn của những gì gần gũi, thân thương nhất đối với mỗi con người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai, trong thời gian và không gian, trong lịch sử và truyền thống. Ở Nguyễn Khoa Điềm, lòng yêu nước là tâm hồn Việt Nam day dứt trong tâm hồn để từ đó rút ra một chân lý vàng ngọc Đất nước của nhân dân. Tư tưởng đất nước nhân dân đã chi phối hầu hết các tác giả của Nguyễn Khoa Điềm. Vì vậy, thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ thể hiện những suy nghĩ, tình cảm của tuổi trẻ trong chiến tranh, về niềm lạc quan hay cái nhìn nghiêm túc, chân thực, trần trụi trước những mất mát… mà còn bộc lộ những suy tư. nghĩ về thực tế sâu sắc hơn nhiều. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện lòng yêu nước qua những tranh luận về tuổi trẻ và nhân sinh quan để xây dựng lại cả quá trình “tìm đường” và “nhận thức đường đi” của thanh niên thành thị Nam Bộ với Internet. của dân tộc và nhân dân. Tài năng và cá tính sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm còn được bộc lộ ở phương diện nghệ thuật đó là thể thơ biểu cảm có phong cách riêng, từ giọng điệu trữ tình đậm chất chính luận đến việc xây dựng chất liệu thơ. chất liệu hiện thực, chất liệu văn hóa và chất liên tưởng…, từ việc sử dụng các tín hiệu thẩm mỹ vừa truyền thống vừa hiện đại đến việc vận dụng linh hoạt thể thơ tự do với các cung bậc thơ khác nhau. những cảm xúc dạt dào với vốn từ phong phú vừa dân gian, vừa đậm chất văn hóa của thời đại. 4. Tác phẩm tiêu biểu Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có các tác phẩm tiêu biểu sau đây Người con gái chằm nón bài thơ, Nơi Bác từng qua, Nỗi nhớ, Tháng chạp ở Hồng Trường, Thưa mẹ con đi, Tiễn bạn cuối mùa đông, Tình Ca, Tôi lại đi đường này, Trên núi sông, Từ những gì các anh trao?, Tuổi trẻ không yên, Vỗ Hờn, Xanh xanh bóng núi, Giặc Mỹ, Gửi anh Tường, Hình dung về Chê Ghêvara, Hồi kết cuộc, Khoảng trời yêu dấu, Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, Lau, Lời chào, Báo động, Bếp lửa rừng, Bước chân – Ngọn đèn, Cái nền căm hờn, Cát trắng Phú Vang, Chiều Hương Giang, Con chim thời gian, Con gà đất, cây kèn và khẩu súng, Đất ngoại ô 1973, Mặt đường khát vọng 1974, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm 1986, Thơ Nguyễn Khoa Điềm 1990, Cửa thép 1972, Đất và khát vọng, Trường ca, Đất nước, Màu xanh lên đường, Mùa Xuân ở A Đời, Ngày vui, Nghĩ về một nhãn hiệu, Xuống đường 5. Vinh danh Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam cho tập thơ “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm”. Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô giải B cho tập thơ “Im lặng” – 2010. Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật 6. Nhận xét về Nguyễn Khoa Điềm và tác phẩm May mắn thay, tôi được sống trong những năm tháng hào hùng của dân tộc để hiểu hơn về đất nước, con người và bản thân mình. – Nguyễn Khoa Điềm Đất Nước- Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên hình tượng Đất Nước quen thuộc mà mới lạ trong thơ ca Việt Nam… Nguyễn Khoa Điềm đã khắc họa một Đất Nước nguyên vẹn, là thể thống nhất của lãnh thổ và văn hóa, của lịch sử và đời sống, một Đất Nước trong không gian tâm linh của con người Việt Nam. Một đất nước như thế không thể có được bằng bút pháp miêu tả bên ngoài, nên mọi yếu tố nhà thơ đều phải dùng hình thức phản ánh, liên tưởng, liệt kê, đưa dần người đọc vào trí tưởng tượng của mình. , vào trí tưởng tượng của họ. ký ức của họ, nhìn thấy Đất nước trong chính tâm hồn họ. – Trần Đình Sử Sợi chỉ nên hình ảnh thơ Nguyễn Khoa Điềm óng ánh một màu sắc riêng của chất liệu văn học dân gian – đó là một phần tạo nên sức hấp dẫn của thơ ca xứ người… để người đọc lặng người, xúc động trước một chặng đường. Định nghĩa đáng ngạc nhiên của Nguyễn Khoa Điềm. Giới thiệu tiểu sử và sự nghiệp của nhà văn / nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, và những tác phẩm văn học để đời của viết này được đăng tại không được copy dưới mọi hình thức. Khi nhắc đến những nhà thơ tiêu biểu, có đóng góp to lớn trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thì không thể không nhắc đến cái tên Nguyễn Khoa Điềm. Ông không những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp văn học của đất nước mà còn là một nhà hoạt động chính trị rất tài ba. sử nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15 tháng 4 năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông là một nhà thơ nổi tiếng, đồng thời là nhà chính trị lớn tại Việt Nam đã từng giữ rất nhiều chức vụ quan trọng trong cơ quan Nhà nước như Thứ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin 1994, Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa V 1995, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương 2001. Ông còn được biết đến với tên gọi khác là Nguyễn Hải Dương. Sinh ra trong thời thế chiến tranh loạn lạc nên từ nhỏ Nguyễn Khoa Điềm đã có tinh thần yêu nước rất mãnh liệt. Hơn nữa, gia đình của ông là một gia đình cách mạng có truyền thống yêu nước và hiếu học, từ ông nội cho đến cha ông là Nguyễn Khoa Đăng đều được rất nhiều người dân mến mộ và ca viết này được đăng tại [free tuts .net] Lúc còn nhỏ ông đi học tại Huế, sau đó ông chuyển ra Bắc sinh sống và học tập tại trường học sinh miền Nam vào năm 1955. Năm 1964, ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội. Từ khi còn là một học sinh, sinh viên ông đã rất tích cực tham gia vào các hoạt động, phong trào thi đua yêu nước như viết báo, viết văn, làm thơ, đồng thời ông cũng tham gia quân đội, xây dựng cơ sở của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm 1975, ông trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Sau đó, ông tham gia công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản và chính thức trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ Thừa Thiên - Huế. 2. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Khoa Điềm Về sự nghiệp văn học, Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Vì trực tiếp tồn tại trong cuộc chiến kháng chiến nên thơ của ông rất giàu tính chiêm nghiệm, đặc biệt hấp dẫn bởi cảm xúc nồng nàn, suy tư sâu lắng và mang màu sắc chính luận - trữ tình. Ông có ý thức rất cao về vai trò cũng như trách nhiệm của một công dân đối với đất nước, vì vậy những áng thơ của ông thể hiện rất rõ tinh thần chiến đấu và bản chất anh hùng bất khuất của những người chiến sĩ Việt Nam. Một trong những tác phẩm nổi tiếng và gắn bó với tên tuổi của Nguyễn Khoa Điềm đó chính là bài thơ “Đất nước” trích trong tập “Trường ca khát vọng” ra đời vào gần cuối năm 1971, ngay tại thời điểm mà kháng chiến chống Mỹ đang trong giai đoạn quyết liệt nhất. Đây là một tác phẩm thành công vang dội, mang đến cho người đọc một cái nhìn toàn vẹn về tinh thần dân tộc và tinh thần yêu nước. Bài thơ đã đi vào lòng nhiều thế hệ người Việt Nam và được đưa vào sách giáo khoa để giảng dạy cho học sinh trong chương trình Chương trình Ngữ văn THPT. Bên cạnh đó, bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của ông cũng được tuyển chọn và đưa vào giảng dạy ở Chương trình Ngữ văn THCS. Ngoài ra, một số tác phẩm tiêu biểu khác của Nguyễn Khoa Điềm có thể nhắc đến như Cửa thép tập ký, 1972 Đất ngoại ô tập thơ, 1973 Mặt đường khát vọng trường ca, 1974 Ngôi nhà có ngọn lửa ấm tập thơ, 1986 Thơ Nguyễn Khoa Điềm tập thơ, 1990 Cõi lặng tập thơ, 2007 Nguyễn Khoa Điềm là người lao động nghệ thuật rất nghiêm túc, ông luôn khắt khe với những tác phẩm của chính mình. Thơ của ông luôn được định hình theo một phong cách riêng, nét riêng. Hầu hết những tác phẩm mà ông sáng tác đều viết về tình yêu quê hương, đất nước và tinh thần dân tộc. Tuy đây là những đề tài quen thuộc được nhiều người sáng tác, nhưng với cách nhìn sáng tạo, mới mẻ cùng tâm hồn cao đẹp đã giúp cho những tác phẩm của ông luôn tạo được dấu ấn riêng trong lòng người đọc.. Ông được trao tặng nhiều giải thưởng về văn học và nghệ thuật, nổi bật là giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ "Ngôi nhà có ngọn lửa ấm" và Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô giải B với tập thơ "Cõi lặng" - năm 2010. Hơn nửa đời người cống hiến cho cách mạng, cho văn học nước nhà thì hiện tại ông đang nghỉ hưu tại quê hương của mình. Tuy sự nghiệp chính trị đã kết thúc, nhưng con đường thơ ca của ông vẫn còn tỏa sáng, hằng ngày ông vẫn làm thơ, đọc sách và tham gia những buổi tọa đàm, những sự kiện văn học. Thơ Nguyễn Khoa Điềm ❤️️ Tác Giả, Tác Phẩm + Tuyển Tập Thơ ✅ Khám Phá Những Thông Tin Thú Vị Về Cuộc Đời, Sự Nghiệp, Phong Cách Sáng Tác. Tiểu Sử Cuộc Đời Tác Giả Nguyễn Khoa Điềm Sự Nghiệp Sáng Tác Nhà Thơ Nguyễn Khoa Điềm Đặc Điểm, Phong Cách Sáng Tác Của Nguyễn Khoa Điềm Nguyễn Khoa Điềm Được Mệnh Danh Là Gì Tuyển Tập Các Tác Phẩm Của Nhà Thơ Nguyễn Khoa Điềm 15 Bài Thơ Hay Nhất Của Nguyễn Khoa ĐiềmĐất NướcKhúc Hát Ru Những Em Bé Lớn Trên Lưng MẹLời ChàoMẹ Và QuảSốngViết Cho Lần CuốiNgày VuiNơi Bác Từng QuaThời Đại Hồ Chí MinhMai Vườn Nở SớmLauChiều Hương GiangTắm Bến Hà KhêMiền QuêBuổi Đầu Tiểu Sử Cuộc Đời Tác Giả Nguyễn Khoa Điềm Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất trong giai đoạn chống Mỹ. Ông được mọi người biết đến với tư cách là một nhà thơ lớn, một nhà chính trị của Việt Nam. Hãy cùng tìm hiểu thêm về tiểu sử cuộc đời tác giả Nguyễn Khoa Điểm ngay sau đây nhé! Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15-3-1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Năm 1955 Nguyễn Khoa Điềm ra Bắc học tại trường học sinh miền Nam. Năm 1964 ông tốt nghiệp khoa Văn của Trường ĐH Sư phạm Hà Nội. Sau đó, ông về Nam hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên Huế; xây dựng cơ sở cách mạng, viết báo, làm thơ… cho đến năm 1975. Năm 1975 ông trở thành hội viên hội nhà văn 1975. Năm 1994 Nguyễn Khoa Điềm ra Hà Nội, làm Thứ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin. Năm 1995 Ông được bầu làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa V. Năm 1996 Ông là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá X và là Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin. Năm 2001 tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, ông trở thành Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương 2001 – 2006 Hiện nay, ông đã nghỉ hưu và sống tại Thành phố Huế. Tìm hiểu thêm về 🌿Thơ Đỗ Phủ 🌿 Bên Cạnh Những Bài Thơ Nguyễn Khoa Điềm Sự Nghiệp Sáng Tác Nhà Thơ Nguyễn Khoa Điềm Tìm hiểu chi tiết về sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Nguyễn Khoa Điềm được sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước và hiếu học, do đó những áng thơ của ông đều hướng về tình yêu quê hương, đất nước. Có thể nó ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, thơ của Nguyễn Khoa Điềm thể hiện rõ được con người Việt Nam và bản chất anh hùng bất khuất của chiến sĩ Việt Nam. Một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Khoa Điềm Đất ngoại ô, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, trường ca Mặt đường khát vọng,… Tác phẩm được xem là thành công nhất của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, đó chính là bài thơ “Đất nước”. Bài thơ ra đời trên chiến trường Bình Trị Thiên vào mùa đông năm 1971. Với việc kết hợp tinh tế giữa ca dao và dân ca vào trong thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được cảm nhận mới lại của tác giả đối với đất nước. Có thể nhận định bài thơ Đất nước là một tác phẩm thành công vang dội, mang đến cho người đọc một cái nhìn toàn vẹn về tinh thần dân tộc và tinh thần yêu nước. Bài thơ đã đi vào lòng nhiều thế hệ người Việt Nam và được đưa vào sách giáo khoa để giảng dạy cho học sinh trong chương trình Chương trình Ngữ văn THPT. Giải thưởng Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập thơ “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm”. Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô giải B với tập thơ “Cõi lặng” – năm 2010. Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Đặc Điểm, Phong Cách Sáng Tác Của Nguyễn Khoa Điềm Chia sẻ cho bạn đọc các đặc điểm, phong cách sáng tác của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Các bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm thường lấy chất liệu từ văn học Việt Nam và cảm hứng từ quê hương, con người cũng như tinh thần chiến đấu của những người chiến sĩ yêu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người Việt Nam. Là người trực tiếp tham gia chiến đâu nên thơ của ông rất chân thật và giàu tính chiêm nghiệm, đặc biệt là cảm xúc vô cùng sâu lắng mang đậm màu sắc trữ tình. Là một người có ý thức và trách nhiệm với đất nước, thế nên những câu thơ ông sáng tác thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của người công dân, người lính với đất nước. => Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc chính luận. Giới thiệu chi tiết về 🔰 Thơ Bạch Cư Dị 🔰Ngoài Chùm Thơ Nguyễn Khoa Điềm Nguyễn Khoa Điềm Được Mệnh Danh Là Gì Nguyễn Khoa Điềm được mệnh danh là gì? Thực tế ông không có một biệt danh đặc biệt nào khác, tuy nhiên ông có một tên gọi khác là Nguyễn Hải Dương. Ngoài ra mọi người còn biết đến ông với tư cách là một nhà thơ lớn và một nhà chính trị Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Là bí thư Trung ương Đảng Cộng Sản khóa IX. Là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X và nguyên là bộ trưởng bộ Văn hóa và Thông tin. Tuyển tập các tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mà bạn nên biết. *Đất và khát vọng +Đất ngoại ô 1972 Đất ngoại ô Nơi Bác từng qua Cái nền căm hờn Tiễn bạn cuối mùa đông Người con gái chằm nón bài thơ Mùa xuân ở A Đời Con chim thời gian Nỗi nhớ Con gà đất, cây kèn và khẩu súng Bếp lửa rừng Cát trắng Phú Vang Khoảng trời yêu dấu Từ những gì các anh trao? Thưa mẹ con đi Tôi lại đi đường này Nghĩ về một nhãn hiệu Gửi anh Tường Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ Lau Hình dung về Chê Ghêvara Tình ca Vỗ hờn Trên núi sông Màu xanh lên đường Bước chân – ngọn đèn Hồi kết cuộc Xanh xanh bóng núi Ngày vui Tháng chạp ở Hồng Trường Chiều Hương Giang +Mặt đường khát vọng 1974 Lời chào Báo động Giặc Mỹ Tuổi trẻ không yên Đất nước Áo trắng và mặt đường Xuống đường Khoảng lớn âm vang Báo bão *Các tác phẩm khác Anh đợi Ánh sáng Bạn ơi, bạn có nhớ? Bạn thơ Bây giờ là lúc… Biển trước mặt – Biển Biển trước mặt – Lời ru Biển trước mặt – Nắng cửa Tùng Bốn câu để lại Bốn mươi năm gặp lại… Buổi đầu Các nhà thơ trên đường Cánh đồng buổi chiều Cáp quang Cầu Long Biên Cây vú sữa trước sân nhà Có một ngày Cỏ ngọt Cỏ trước Ba Đình Cõi lặng Đất nước những tháng năm thật buồn Đêm thu ở Hội An Đi bên mùa thu Đi mãi vào rặng núi xa mờ Đọc thơ tứ tuyệt của Đỗ Mục Đồng dao mùa xuân Em, cây chò của anh Giữa ngày xa cách Hoa quỳ vàng Hồ Tây, 2011 Hy vọng Không có quyền mệt mỏi Kính tặng Nguyên Hồng Làng Phao Võng Lặng lẽ Lên núi thăm chùa Mai vườn nở sớm Mẹ và quả Miền quê Một con người Một người Mưa có nói gì không nhỉ? Mưa thu Ngàn năm Thăng Long Ngày đầu năm thăm lão danh tăng Ngày về Ngôi nhà có ngọn lửa ấm Ngũ ngôn ở An Hiên Người nằm bên Hồ Tây Người ở Yên Tử Nhân dân Nhớ Lưu Quang Vũ Nhớ một nhà thơ đã mất Nhớ Nguyễn Đ. Những bài hát, con đường và con người Những bài thơ tình viết trong chiến tranh – Bài 1 Những bài thơ tình viết trong chiến tranh – Bài 2 Những bài thơ tình viết trong chiến tranh – Bài 3 Những bài thơ tình viết trong chiến tranh – Bài 4 Những câu hỏi đầu năm Những quyển sách Nói với bạn bè trong cuộc họp Nói với nhà văn quá cố Ở tuổi sáu ba Sau ngày hội Sống Sông Hương Sự thật của cuộc ra đi Tắm bến Hà Khê Tặng một người sáng tạo Tập thiền Tháng giêng về Văn Giang Tháng tư Tháng tư, Trường Sa Thăm mộ ông bà Thấy người trở lại Trường ca Thơ tặng cháu ngoại Thời đại Hồ Chí Minh Tiễn biệt nhà thơ Tố Hữu Trên đường Trong cánh rừng hiện đại Trong những buổi chiều Trở lại A Lưới Tự do Thơ Nguyễn Khoa Điềm 1990 Uống rượu với bác Dương Văn Vượng Vào hạ Cửa thép Về quê đón Tết Viết cho lần cuối Viết cuối năm Viết ở Hàn Quốc Viết trong ngày Valentine Viết từ Đà Nẵng Có thể bạn quan tâm 👉Thơ Bà Huyện Thanh Quan 👈 Bên Cạnh Tuyển Tập Thơ Nguyễn Khoa Điềm 15 Bài Thơ Hay Nhất Của Nguyễn Khoa Điềm Mời bạn đọc thưởng thức 15 bài thơ hay nhất của Nguyễn Khoa Điềm ngay sau đây. Đất Nước Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồiĐất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kểĐất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặcTóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo, cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàngĐất Nước có từ ngày đó… Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầmĐất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”Thời gian đằng đẵngKhông gian mênh môngĐất Nước là nơi dân mình đoàn tụĐất là nơi Chim vềNước là nơi Rồng ởLạc Long Quân và Âu CơĐẻ ra đồng bào ta trong bọc trứngNhững ai đã khuấtNhững ai bây giờYêu nhau và sinh con đẻ cáiGánh vác phần người đi trước để lạiDặn dò con cháu chuyện mai sauHằng năm ăn đâu làm đâuCũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ TổTrong anh và em hôm nayĐều có một phần Đất NướcKhi hai đứa cầm tayĐất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắmKhi chúng ta cầm tay mọi ngườiĐất nước vẹn tròn, to lớn Mai này con ta lớn lênCon sẽ mang đất nước đi xaĐến những tháng ngày mơ mộngEm ơi em Đất Nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó san sẻPhải biết hoá thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất Nước muôn đời… Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sông ta… Em ơi emHãy nhìn rất xaVào bốn ngàn năm Đất NướcNăm tháng nào cũng người người lớp lớpCon gái, con trai bằng tuổi chúng taCần cù làm lụngKhi có giặc người con trai ra trậnNgười con gái trở về nuôi cái cùng conNgày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánhNhiều người đã trở thành anh hùngNhiều anh hùng cả anh và em đều nhớNhững em biết khôngCó biết bao người con gái, con traiTrong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổiHọ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất NướcHọ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồngHọ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúiHọ truyền giọng điệu mình cho con tập nóiHọ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dânHọ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái tráiCó ngoại xâm thì chống ngoại xâmCó nội thù thì vùng lên đánh bạiĐể Đất Nước này là Đất Nước Nhân dânĐất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoạiDạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lộiBiết trồng tre đợi ngày thành gậyĐi trả thù mà không sợ dài lâuÔi những dòng sông bắt nước từ lâuMà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hátNgười đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thácGợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôiNgười dạy ta nghèo ăn cháo ăn rauBiết ăn ớt để đánh lừa cái lưỡiCái cuốc, con dao, đánh lừa cái tuổiChén rượu đánh lừa cơn mỏi, cơn đauCon nộm nang tre đánh lừa cái chếtĐánh lừa cái rét là ăn miếng trầuĐánh lừa thuồng luồng xăm mình xăm mặtĐánh lừa thằng giặc là chuyện Trạng QuỳnhNhưng lạ lùng thay, nhân dân thông minhKhông hề lừa ta dù ca dao, cổ tíchTa lớn lên bằng niềm tin rất thậtBiết bao nhiêu hành phúc có trên đờiDẫu phải khi cay đắng dập vùiRằng co Tấm cũng làm về hoàng hậuCây khế chua có đại bàng đến đậuChim ăn rồi trả ngon ngọt cho taĐất đai cỗi cằn thì người sẽ nở hoaHoa của đất, người trồng cây dựng cửaKhi ta đến gõ lên từng cánh cửaThì tin yêu ngay thẳng đón ta vàoTa nghẹn ngào, Đất Nước Việt Nam ơi!… Ta lớn lên khao khát những chân trờiNhững mảnh đất chân mình chưa bén đượcNhững biển khới chứa mặt trời đỏ rựcNhững ngàn sao trôi miết giữa màu xanhÔi có cách gì ta được ngắm những bình minhBuổi vũ trụ chớp bùng nên sự sốngVà ánh sáng trên chiếc xe vàng chuyển độngBỗng một ngày ấm áp kể ta ngheVề những con ngươi của thiên thể xa xôiMuốn bầu bạn với con người Trái đấtÔi phút đó ta vùng lên ngây ngấtMuốn ôm choàng hết tất cả trời mâyTrái tim tay nặng trĩu những mê saySẽ gieo xuống làm âm vang mặt đất… Nhưng em ơi, cái điều trông đợi nhấtVẫn những gì có thể có hôm nayTừ hôm nay, trên mảnh đất ta đâyTa nắm nó như sợi mây vững chãiRồi rút dần từ cánh rừng vĩ đạiCủa cuộc đời hằng nuôi dưỡng chúng taVà diệu kỳ thay! Ta bỗng loá bất ngờTa đã thấy cuộc đời vô hạnGiữa đất đai, nhân dân, bè bạnTa tìm ra ánh sáng của Con NgườiNhững Con Người làm sông núi sáng tươi… Những địa danh trôi từ thuở xa xôiTrôi bằng máu và trôi bằng nước mắtĐã đọng lại thành tên ngươi, tên đấtBao năm rồi suốt mặt pha, triền sôngNhưng không có con người nào đã trôi hết sâu nông Bằng những người dân miền Tây nghèo khổĐây không biển thì rừng làm biển cảMột biển xanh với cồn sóng ngút trờiHọ bám mình vào tấm rẫy nổi trôiRồi gục chết dưới màu xanh vĩnh viễnCuộc đời họ mênh mang bất địnhChỉ đó nghèo bám riết lấy màu daÔi mây trắng ngang đầu, gió dưới rừng xaĐất Nước ở đâu? Đâu là Đất Nước?Kờ-ruồng Kù tiệt!Tiếng suối hay tiếng chim?Tiếng người hay tiếng chiêng?Tiếng đá lăn, cây đổ?Thác gào hay đá nổ?Kờ-ruồng Kù tiệt!Kờ-ruồng Kù tiệt!Đất Nước! Đất Nước!Đất Nước trên miệng ta rồiTrong tim ta mangTrên chân ta bướcĐất Nước! Đất Nước!Cả núi rừng thét lên đồng loạt!Đó là năm dưới thời giặc PhápChúng hất hàng chục chòi Ta-ôi ra khỏi bản đồĐẩy họ vào những cánh rừng xanh không Tổ quốcChính lúc đóLửa đã cháy lên!Lửa ngàn đời từ mỗi bếp cháy lên!Đốt nhà! Ta đốt hết nhà!Địu con lên lưng vác giáo lên vaiĐánh trăm chiếc cồng xuyên thủng núiMắt người già quắc lên cho đàn trẻ theoTa đạp rừng nhằm phía Đông bươn tới!Ôi ta về nguồn! Về nguồn!Kờ-ruồng Kù tiệt!Kờ-ruồng Kù tiệt!Đất Nước! Đất Nước!Ôi ta về theo Đất NướcTa không chịu làm người dân không Đất NướcKhông Việt NamBiển rừng gào lên như muốn níu chân taBiển rừng không cuốn ta vào vô định nữaTa làm con suối rừng biết tìm sông mà tớiTa làm con nai biết tìm lối mà vềMặt trời mọc, mặt trời chỉ hướngÔi lòng ta có mặt trời soi sángTa trở về Đất Nước Tổ tiên ơi!…Và hôm nayKhi bom thằng Mỹ tớiCắt ngang những nói nhọn nhà làngChôn những nhà mồ vào đất bụiTa đánh lên tiếng cồngTa gọi vang rừng vang úiĐất Nước!Ta đánh lên tiếng chiêng cho cả Bắc Nam cùng nghe được!Nghe tấm lòng người Tà-ôi, Pa-kô, Cà-tuThuỷ chung Đất NướcRồi ta quăng cồng dưới suốiRồi ta chủ chiêng dưới câyTa điTrong âm vang yêu nướcTa đi với rựa và tênRựa ta mài vào gỗ thành nươngTên ta gài xuống đất thành bẫyThằng Mỹ vào thì xác mà để đấy!Thằng nguỵ vào thì xác nó đừng chôn!Cho cháu con ta, ai sau nữa, được nhìn!Ôi Đất Nước đầu mũi daoĐất Nước đầu mũi tênĐất Nước đầu tiếng chiêngĐất Nước là ngọn lửaĐất Nước tràn lên từng đỉnh núiĐất Nước thiêng liêng… Đêm nay ta lên hết mặt sông Hồng!Nước đánh động dưới chân ta rồiĐất NướcĐang gọi ta từng hồi trống thúcĐất Nước xoáy nhào tim taKý ứcĐất Nước muôn đời đang vặn mình, đang sôi… Chúng ta là người dân miền NamNhung tôi biết anh gốc gác họ Hoàng Kinh BắcCòn tôi họ Nguyễn tỉnh ĐôngHuyết thống ta trôi trên bán đảo âm thầmHôm nay bỗng réo sôi từng hồi từng trậnKhi cơn lũ đang lao qua châu thổ sông Hồng! Ta lên hết mặt đê sông Hồng!Dẫu chỉ bằng tâm tưởngỞ đâu đó ta không còn nhớ nữaSao tổ tiên ta cầm cuốc, cầm càyCầm giáo, cầm khiên và cất tiếng hát lưu đàyĐể xa châu thổ từ độ ấy… Ôi những gốc tre tổ tiên ta từng thấyVẫn còn nguyên trên bờ bãi sông HồngLúa lên xanh trên những cánh đồngCũng có tay cha ông in vào trong lúaSâu thẳm quá cho đến từng mái rạCũng có dáng một ngày cha ông khăn gói bước ra Ôi những gì Người đã ước mơThì bây giờ cũng thơm lá thơm hoaNên hôm nay chúng taPhải lên hết đê sông Hồng mà giữ lấy! Đất NướcPhải chặt tre, đóng cọc mà giữ lấy!Đất NướcPhải đan phên, đổ đất mà giữ lấy!Đất NướcPhải phá nhà, chặt cây vườn vác ra mà giữ lấy!Đất NướcPhải neo người xuống sông, chặn nước mà giữ lấy!Đất NướcĐất Nước không thể trôi được!Máu xương, mồ mả tổ tiên đã trôi điNhững dòng họ đã trôi điNhưng hôm nay không thể nào trôi được!Đất NướcĐang gầm lên trong sóng gió ngất trờiHàng chục triệu thước khối nước đang lao vào mặt đấtCuộc xáp trận của vật chất muốn đè vật chấtCủa thiên nhiên đè xuống con ngườiTa vươn mình gánh lấy đất đaiTa ném máu xương ta vào làm vật cảnTất cả ý chí và sinh mạngPhải được vai dựa vào vai, đùi gối lên đùiĐẩy con đê sông Hồng tiến lên phía trướcThắng giặc Mỹ hay thắng giặc nướcĐều nhất tề xung phong! Sơn Tinh đang nhìn ta lo lắng đăm đămCả nhân loại đang nhìn ta cổ vũCon cháu ta mai sau hối hả lật từng trang lịch sửNgợp trước con đê sông Hồng lên cao, lên cao…Chào 4000 năm! Con đê như một cánh tay caoCủa thế trận những người làm chủLàm chủ cuộc đời và lướt từng đỉnh lũBảo vệ miến Bắc, chi viện miền Nam! Mẹ Việt Nam ơi!Đêm nay con về gối đầu trên cánh tay của MẹÔi cánh tay rắn rỏi, dịu hiềnLấm láp bùn lầy nhưng ấm áp niềm tinĐó là hai cánh đê sông Hồng của MẹMẹ phả vào mặt con nồng nàn mùi sữaCủa những đồng xa nguyên vẹn như mùaCon đã đi xa từ thuở ấy đến giờNay bọn Mỹ còn cắt chia Đất NướcNhưng đêm đêm con trở về thân thuộcNgủ trên cánh tay Mẹ hiền từ cay đắng nuôi conTrong tháng năm chớp bể mưa nguồnRu con lớn và làm người thương Mẹ… Đã có một thờiAi muốn vào châu Mỹ La-tinhĐến trước vịnh Ca-ra-ipSẽ không cần dùng địa bànCứ nhìn những xác da đenTrôi bập bềnh trên biểnNhững xác da đen chỉ hướngĐưa anh vào “mảnh vườn sau” của chủ nghĩa thực dânĐã có một thờiAi muốn đến Việt NamCứ theo gót những đàn ngựa phương BắcHay chữ thập trên tàu buôn nước PhápCác bạn sẽ tìm ra Việt NamBởi vì ngày ấyNước chúng tôi chưa có trên bản đồ thế giớiNgôn ngữ loài người chưa biết hai chữ “Việt Nam”Và dẫu bạn đến đâyChỉ có những tên đô hộ phủ toàn quyềnĐứng ra tiếp bạnNhưng hôm nayBạn hãy đi theo những đoàn đi bộ tuần hànhMang những lá cờ sao vàngỞ Pa-ri, ở Mát-xcơ-va hay Xtốc-khômBạn sẽ đến được Việt Nam tôi đó Bởi vì Việt Nam hôm nayNằm giữa lòng thế giớiNằm trong tim nhân loạiNằm trên con đường dẫn ta tới giá trị Con Người…Bởi vì Việt Nam hôm nayLà Việt Nam chống MỹChúng tôi gánh trên vai hành trang nặng nề của thế kỷĐể bạn bình tâm bước vào ngưỡng cửa Tự do… Bạn đến đâyĐã có Bác HồVà Nhân dân tôi sẵn sàng đón bạnDẫu Người đi vắngBạn có thể đến nhà Người thăm một khóm hoaRồi cùng nhân dân tôi trò chuyệnNhân dân tôi đẩy tình yêu mếnĐã được Người dặn dò trước phút đi xa… Bạn hỏi vì sao cúng tôi yêu quý Bác HồBởi vì Người là Người đầu tiênVề với Đất Nước chúng tôiMang chủ nghĩa Mác-Lê ninChứa trong trái tim yêu nước nhấtKhi Người đặt tay lênHòn đất Việt Nam đầu biên giớiThì từ đóĐất không phải là đất nữaĐất là chiến hàoĐất là cạm bẫyĐất là hoa tráiNuôi chúng tôi, che chúng tôi cầm súng lên đường! Có Người, chúng tôi có lại Hùng VươngCó lại dáng búp sen nghìn năm của chùa Một CộtVà những búp sen miền Nam tận bùn lầy Đồng ThápCó Người, cũng đã thành thơCó Người, mỗi mũi tên đồng Cổ LoaKhông chịu vùi dưới đấtKhông nằm yên trong viện bảo tàngChúng bay lên xé gió thời gianMở hết đường bay qua thăng trầm lịch sửĐể cắm vào đầu giặc Mỹ!Có Người, pho Bồ Tát nghìn tay nghìn mắtBiết toả hào quang từ hàng chục cánh tayCó Người, pho Bồ Tát triều Lý chỉ còn đầuVẫn nguyên vẹn trong lòng chúng tôi nhờ búi tóc thời vua Hùng để lạiVà pho Kim Cương trên đôi chân vững chãiDẫu mất đầu vẫn giữ một dáng đứng Việt NamĐấy, Đất Nước chúng tôi đổ vỡ biết bao lầnCả những pho từ bi cũng không ngoài hoạn nạnNhưng có Người, những cái mất đi phải trả về hình dángQuá khứ được nhìn từ đôi mắt Hôm NayVà Hôm Nay từ đôi mắt Ngày MaiChúng tôi sống bằng Tương lai một nửaBằng tình yêu vô hạn những con ngườiNhư Hôm Nay nhìn Đất Nước cắt đôiChúng tôi đã thấy ngày hàn gắn… Bởi vì Người là người đầu tiênYêu miền Nam trong trái tim mìnhYêu tuổi trẻ miền Nam 25 nămChưa có được ngày hạnh phúc Mà Người dạy chúng tôiHãy bền gan đánh giặcDẫu phải chết cũng không khuất phục“Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do!” Chúng tôi là con cháu Bác HồCó nghĩa là chúng tôi giống BácNhững gì còn non nớtChúng tôi học tập để sống, chiến đấu như Người Bởi vì Người là đất nước của chúng tôiMỗi sợi tóc trắng của Người đều ghi ngày gian khổ nhấtCủa Đất Nước, những năm dài đánh giặcĐôi dép của Người mòn vẹt gótNgười đã đi những ngả đường Đất Nước hành quân Trái cà Người ănCũng là trái cà nuôi người anh hùng đầu tiên – Thánh GióngCây gậy Người cầmCũng có thể tìm trong trăm ngàn gậy vượt Trường SơnÝ chí của NgườiÝ chí toàn dân tộcLý tưởng của NgườiSự sống chúng tôi mang…Hồ Chí Minh – Việt NamBạn và tôi cùng gọiHồ Chí Minh – Việt Nam Em nghe không trái thị đã rơi xuống tay NgườiTrái không chỉ rơi vì sức hút đất đaiTrái rơi vì tay Người ao ướcKhi trái chạm vào tay Người và Người ấp ủThì lừng hương tay Người và Người ấp ủThì Lừng hương và cô Tấm bước raĐi trả thù và sống Tự do…Không rơi xuống bùn, ôi trái thị quê taĐể bùn lấm và thành bùn vạn kiếpRơi vào tay Người, đó là định luậtCủa đấu tranh và nhân nghĩa Việt Nam Tuổi trẻ ơi trong sương gió tháng nămTa đã lớn rồi, chín đầy hy vọngHãy ngã xuống tay Nhân dân, hỡi sắc vàng cảu nắngHỡi hương thơm của nồng mặn mồ hôi.. Hãy ngã vào tay Nhân dân, đừng vãi đừng rơiĐừng tự do, đừng hoài nghi nữaHãy yêu Nhân dân và nghe Người nhắn nhủHãy tìm sức mạnh mình trên cơ thể Nhân dânNhân dân đang đi lên đội ngũ trùng trùngThế vô tận của nghìn năm giết giặcLửa đã cháy hồng hào mặt đấtMùa chín tình yêu, mùa chín hận thù! Không bao giờ xương máu phải bơ vơÔi sông núi nghi ngàn dặm đấtCó nghe tiếng chúng con Xin có mặtNguyện làm người xung kích của quê hươngĐây tiếng hát chúng conTiếng hát xuống đường! Khúc Hát Ru Những Em Bé Lớn Trên Lưng Mẹ Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi,Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng giã gạo mẹ nuôi bộ đội,Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em hôi mẹ rơi má em nóng hổi,Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối,Lưng đưa nôi và tim hát thành lời Ngủ ngoan a kay ơi, ngủ ngoan a kay hỡi,Mẹ thương a kay, mẹ thương bộ độiCon mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần,Mai sau con lớn vung chày lún sân… Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi,Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng đang trỉa bắp trên núi Ka–lưiLưng núi thì to, mà lưng mẹ nhỏ,Em ngủ ngoan em, đừng làm mẹ trời của bắp thì nằm trên đồi,Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng. Ngủ ngoan a kay ơi, ngủ ngoan a kay hỡi,Mẹ thương a kay, mẹ thương làng mơ cho mẹ hạt bắp lên đềuMai sau con lớn phát mười Ka–lưi… Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi,Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng đang chuyển lán, mẹ đi đạp Mỹ đuổi ta phải rời con suốiAnh trai cầm súng, chị gái cầm chông,Mẹ địu em đi để dành trận trên lưng mẹ em đến chiến trường,Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn. Ngủ ngoan a kay ơi, ngủ ngoan a kay hỡi,Mẹ thương a kay, mẹ thương đất mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ,Mai sau con lớn làm người Tự Do… Lời Chào Ta đã đi qua những năm tháng không ngờVô tư quá để bây giờ xao xuyếnBèo lục bình mênh mang màu mực tímNét chữ thiếu thời trôi nhanh như dòng sông… Ta lớn lên bối rối một sắc hồngPhương cứ nở hoài hoà như đếm tuổiNhư chiều nay, một buổi chiều dữ dộiTa nhận ra mình đang lớn khôn… Biết ơn những cánh sẻ nâu đã bay đến cánh đồngRút những cọng rơm vàng về kết tổĐá dạy ta với cánh diều thơ nhỏBiết kéo về cả một sắc trời xanhBiết ơn mẹ vẫn tính cho con thêm một tuổi sinh thành “Tuổi của mụ” con nằm tròn bụng mẹĐể con quý yêu tháng ngày tuổi trẻBuổi mở mắt chào đời, phút nhắm mắt ra đi… Biết ơn trò chơi tuổi nhỏ mê ly“Chuyền chuyền một…” miệng, tay buông bắtNgôn ngữ lung linh, quả chuyền thoăn thoắtNên một đời tiếng Việt mãi ngân nga… Biết ơn dấu chân bấm mặt đường xaNhững dấu chân trần, bùn nặng vếtTa đi học quen dẫm vào không biếtDáng cuộc đời in mãi dáng ta đi… Biết ơn dòng sông dựng dáng kiếm uy nghiTrong tâm trí một nhà thơ khởi nghĩaCao Bá Quát ngã mình trên chiến địaTrăm năm rồi sông vẫn sáng màu gươm… Trăm năm rồi ta đếm bước sông HươngVẫn soi thấy niềm đau và nổi giậnKhuôn mặt trẻ bỗng già trên lớp sóngNgẩng đầu lên, ta thấy mặt quân thù! Mẹ Và Quả Những mùa quả mẹ tôi hái đượcMẹ vẫn trông vào tay mẹ vun trồngNhững mùa quả lặn rồi lại mọcNhư mặt trời, khi như mặt trăng. Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lênCòn những bí và bầu thì lớn xuốngChúng mang dáng giọt mồ hôi mặnRỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi. Và chúng tôi, một thứ quả trên đờiBảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được háiTôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏiMình vẫn còn một thứ quả non xanh? Sống Không thể nào chấp nhận sốngCho dù được đặt hoa trước cửaHát véo von trên cánh đồngThắp hương người dưới mộThiệp hồng như chim bayĐồng tiền chuồi qua khung thể nào chấp nhận sốngVới lời cầu xin, lời doạ nạtCon người luôn đi sau thời gianĐể thời gian chỉ còn báo mộngKhông thể nào bưng hai tayMột bình an đặng sốngKhông thể nào cúi đầuNhìn ngón chân bất thể nào chấp nhận sốngMà không biết mình về đâuKhông biết mình có thể làm gìBuồn vui theo kẻ thể nào chấp nhận sốngTrong sợ hãi, trong lọc lừaChẳng nhớ tim mình còn thể nào chấp nhận sốngKhi mình chưa là mìnhTrống trơ như vực thẳm…Ngày ta sốngKhi mình là sự sốngTừ ra đi đến trở vềTừ hư vô đến bụi đờiKim cương bất hoại. Viết Cho Lần Cuối Anh chẳng mong chôn vào đá, vào đồngChỉ có thể là đất đai thân thuộcSâu một thước với tứ chi còi cọcCũng đủ mời giun dế đến lai raiAnh chẳng thiêng, cũng chẳng doạ dẫm aiXin đừng ngại, ngọn cỏ hiền sẽ mọcTrên mặt đất, một dáng hình đã khuấtTrong mây chiều hay sương sớm mai Phải không em, chỉ nỗi khát làm ngườiAnh đã chọn với hai hàng nước mắtKhi cái chết làm phép trừ vô cựcAnh là anh, mãi mãi vẫn là anh… Ngày Vui Tôi qua dòng sông yên tĩnhCon cầu như tiếng ngân vuiTiếng ve ấm bừng trí nhớSen lên thơm bốn mặt thànhNgày vui của đời ta đóGió thổi đường dài bâng khuâng… Đất nước ba mươi nămTrên vai sắt thépĐi suốt cuộc trường chinhĐi qua tuổi trẻĐi qua những cuộc tiễn đưa lặng lẽ, không hoaVà bây giờ đất nước nở hoaGầm trong hai mươi mốt phát đại bác rung trờiChào Chiến Thắng! Đất nước của tôiTôi muốn quì trước chân NgườiĐặt môi mình trên nguồn thẳmIn trán mình vào cát mặnTung tăng hoài mỗi gốc lúa làng quêHát khúc đồng dao về Độc Lập, Tự Do… Mẹ ơi, con trở lại nhàSau lưng con cánh cửa chiều khép nhẹMẹ lại ngồi trước bếp chiều lặng lẽNấu cơm cho chúng con ănÔi những hạt gạo nổi chìm ba mươi nămĐời mẹ tảo tần cay đắngTừng nuôi chúng con làm nên chiến thắngBây giờ chưa đủ chúng con noNhưng căn nhà mình lộng gió tự doReo tiếng trẻ những mùa làm lụng mới… Mẹ thân yêu, với tấm lòng trọn vẹnMẹ vẫn khơi bếp lửa hồng như cổ tích, ca daoVề những gì mong đợi ở mai sau… Nơi Bác Từng Qua Nơi mẹ sinh con ra nơi Bác từng quaNăm tháng ấy bây giờ con mới rõTóc mẹ bạc rồi, những năm đói khổKinh đô đau buồn – nơi Bác từng học nào Người đã đến ngồi đâyNhững mùa thu im lìm lá đổNhư vùi sâu cả bầu trời xứ sởXuống dòng sông nức nở khúc Nam ai?Góc chợ Xép, nơi nào Người đến ởHàng phượng nào từng nở một mùa hoaĐã rải đỏ tâm hồn người thưở đóMột sắc cờ vẫy gọi buổi Người xa?Ôi trái mù u động dưới chân NgườiCòn muốn theo Người ra cản giặcNgười culy nào hai càng xe khoá chặtSẽ cầm cờ đi trong tương lai?Kinh đô mất, nhưng lòng Người không tắtTừ đau thương, chân lý đến nơi nàyTổ quốc lớn lao là Tổ quốc của người chân đấtHát dân ca và cầm búa, cầm buổi ấy… Người đi không trở lại,Nhưng thành phố vẫn đi trên những bước chân NgườiThành phố vẫn khoác hai màu trời thu thương nhớ mãiNăm Bốn mươi lăm và ngày Bác mất, Bác Hồ ơi!Thành phố Bác qua đã thành nơi chiến đấuĐuổi Nhật, Tây và hất đổ ngai vàngGiặc Mỹ kéo vào. Mỗi tiếng Người vang vọng“Vì độc lập, tự do…” – Thành phố lại lên đường…Nơi ấp ủ những dấu chân hy vọngNgười trồng cây đến hái trái cây vềNên hôm nay trước trận cuối cùng đánh thắngBước Người về, cả thành phố lắng nghe… Thời Đại Hồ Chí Minh Khi những anh hùng ngẩng cao đầu ngã xuốngMiệng hô vang Hồ Chí Minh, Hồ Chí MinhLịch sự như một con tài cất tiếng còi cháy bỏngBáo ga này ga Hồ Chí MinhKhi đoán cháu con lại nối tiếp cha anhTiến trên đường Hồ Chí Minh đuổi giặcLịch sử sẽ khởi hành trên con đường ngắn nhấtVào tương lai thơi đại Hồ Chí MinhKhi những em bé đến trường trong tình thương bè bạnNhững dân tộc vùng cao viết chữ cụ Hồ trong núi bắngLịch sử sẽ lật từng trang nhanhTrong ánh sáng thời đại Hồ chí MinhTừ đau thương ta đứng dạy quên mìnhLẽ sống là con đường diệt MỹDáng vóc lớn khi ta cầm vũ khíViệt Nam hùng vĩ nước non nàyTrên đất nước nghìn năm những nông dân lại tập cấy càyNhà bác học phải nghĩ suy từ ba sào chua mặnNăm tấn thóc để làm thép gang mặt trậnCũng là bài ca theo suốt những đoàn quânTa lại có tình yêu sáng ngời hơn trăm nét hoa vănCó nỗi vui một câu ca dao, một trang Kiều mơ ướcCó trời xanh Ba Đình ai cũng nhìn ngắm đượcCó đời ta trọn vẹn giữa đời dânTa thêm yêu tin mỗi thước đất ta nằmĐường ra trận ta thương từng bóng láNgủ hầm sâu ta quý từng lớp gióĐất nước này ta yêu ta thânÔi đất nước Hồ Chí MinhChưa bao giờ nghĩ suy của ta cao rộng thếTừ việc đầu tiên là việc đuổi Mỹ dựng nhàCho đến việc dạy em bé đừng đi chân khôngVà chuyện riêng sinh đẻBa mươi triệu người dân lo toan bằng tấm lòng người cha, người mẹThời đại Hồ Chí Minh chúng taSung sướng thay mỗi người dân đều được thấy Bác HồCàng nhớ dáng những vua Hùng thời lập nướcBốn ngàn năm nghĩa là bốn ngàn năm có đượcMột bây giờ thời đại Hồ Chí MinhÔi ta đã góp những chiếc nôi ngày nhân loại khai sinhNay đã góp máu xương chọ trọn ngày chiến Việt Nam xanh màu trên châu Phi cát trắngNhững Việt Nam khoác súng tường trên châu Mỹ La-tinhNhững Việt Nam chân lý Hồ Chí MinhÔi Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh…Điệp khúc lớn những mùa thu ra trậnChúng con đi bát ngát tự hàoMảnh trời xanh sau rừng biếc bay caoNhư tay bác như tay thời đại vẫyĐường giải phóng dù gian lao máu chảyChúng con đi bền bỉ sức thanh xuânĐang lớn lên như Phù Đổng trăm lầnQuyết đánh thắng bầy hung nô thể kỉQuyết thắp sáng trong tầm cao ý chíChân lý người k có gì không có gì quý hơnĐộc lập tự do, Hồ Chí Minh thời đại sáng tên người Mai Vườn Nở Sớm Năm nhuận, cả vườn mai nở sớmNhững vội vàng tan tác trước Văn LâuThì hãy nhận những cành xanh mới chớmMột mùa xuân bừng biếc sắc ngày sau… Lau Xe đi trong rừng lauLau làm mây, lau làm bàn tayVuốt nhẹ vào buồng láiBuồng lái ta có giàn tre làm máiThêm lau che đường, buồng lái hóa nhà taKỷ niệm tuổi thơ phơ phất bóng lau quaLớp trẻ đi những triền đồi bãi sóngTrên vai bạn cờ lau tập trậnLịch sử ngàn xưa là ước mơ nayXe đi trong rừng lau gió lay..Những hòm đạn ba-mươi-cân nén chặt thùng xeNhững tải gạo năm-mươi-cân căng tròn nóng hựcTruyền thuyết xưa và thần thoại nayLấp lánh khung trời cánh hoa lau bayThung lũng A Xo một bầu cộng hưởngBê-năm-hai và pháo địch rú gàoNhưng năm năm trời xe ta đi là thếDìu dắt cửa ngoàn vẫn tiếng lau xaoYêu những đồi lau ra trận đêm naoLau thắp sáng hai bờ vực thẳmQua trọng điểm gạt mồ hôi thấp nhámNhững bông lau vướng vít tự bao giờMột màu hoa sáng loáng cả mùa khôMàu tốc độ trên tuến đường vận chuyển. Chiều Hương Giang Sau chiều nay, còn buổi chiều khác nữa,Có thể mây cao, có thể nắng vàng,Cơn gió thổi những buổi chiều chưa tớiTóc bao người bay rợi cả không gian… Nhưng chiều nay, con bò gặm cỏ,Bên dòng sông, như chưa biết chiều với nó lặng im, bè bạnMắt nó nhìn dìu dịu nước Hương Giang. Những buổi chiều, những buổi chiều quê hương,Tôi đã sống và tôi chưa được sống,Nhưng chiều nay, vô tình trong nắng muộn,Mắt tôi nhìn trong suốt nước Hương Giang… Tắm Bến Hà Khê Mười năm dầu dãi, đường xa ngái,Bây giờ về tắm bến Hà lên tháp cổ cao trông đợi,Cúi xuống dòng xưa chợt ấu thơ. Miền Quê Lại về mảnh trăng đầu thángMông lung mặt đồng bóng chiều,Tiếng ếch vùi trong cỏ ấmLúa mềm như vai thân yêu Mùa xuân, là mùa xuân đấyThả chim, cỏ nội hương đồngĐàn trâu bụng tròn qua ngõGõ sừng lên mảnh trăng cong Có gì xôn xao đằm thắmBao nhiêu trông đợi chóng chầyĐàn em tóc dài mười támThương người ra lính hôm mai Để rồi bao nhiêu gió thổiBên giếng làng, ngoài bến sôngCó tiếng hát như con gáiCao cao như vầng trăng trong… Buổi Đầu Tặng con gái Kìa cái bông hoa làm con ngãKìa tiếng chim sẻ cười làm con nín khócKìa cái nắng dắt con dạo chơiCha mẹ đi làm, con một mình tha thẩnNgã, đứng dậy, khóc, cười một mình… Bốn mươi tuổi rồi, lắm khiCha cũng ngã, đứng dậy, khóc cười một mìnhCuộc đời cha dễ đâu toàn vẹn Xa conCha đau đáu nhớ thươngCha gọi thầmNỗi chịu đựng của cha ơiNiềm mong đợi xót xa của cha ơiCon hãy nắm chắc thế giới này trong hai tayNgay tự buổi đầuNhững chim,Những hoa,Những nắng… Xem ngay các thông tin thú vị về 🌸Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ 🌸Tìm hiểu chi tiết

phong cách thơ của nguyễn khoa điềm