Mọi Liên Hệ Xin gửi về Số Điện Thoại+ Zalo : 0931359110facebook : : ducxb99@gmail.com #tuvi #tuvinamphai #
VẬN MỆNH CƠ BẢN Sao Vũ khúc, Tham lang cùng tọa cung Sửu, Mùi, là mệnh cách Tham Vũ đồng hành, sau đó vì sao Thái dương và Thái âm cùng kẹp cung Mệnh, cũng là mệnh cách Nhật nguyệt giáp mệnh, cả đời đầy đủ giàu có, vừa có tiền vừa có
Vũ tham sửu mùi, sát phá mạnh, bại chuyển thành thắng. Thất thời mạnh nhược thành yếu, thắng chuyển thành bại. Âm Dương Ngũ Hành tác hóa biểu hiện ra bên ngoài là thời vận, đắc cách là gặp thời, phá cách là thất thời. Thành bại không chỉ do nhân mệnh, phần đa do
Lá số khách hàng đăng ký xem năm 2017 Nam Mệnh Sinh ngày 23/08/1984 lúc 14h5' DL. Mệnh: hải trung kim. Cục: thủy nhị cục. Âm dương nghịch lý. Mệnh sinh cục. Thân cư phúc đức. Bát tự: giáp tý- nhâm thân- kỷ sửu- tân mùi. Tứ trụ: giáp tý- nhâm thân- kỷ sửu- tân mùi
Tháng Tám 18, 2022. in Tử vi đẩu số. 0. Đánh giá post. Thái âm - Thái dương ở Mệnh. Chỉ đồng cung tại Sửu Mùi, tạo thành "Âm Dương Sửu Mùi cách", còn gọi là Nhật Nguyệt đồng lâm cách". Thái Dương là trung đẩu đế tinh, nên mặc dù thuộc nhóm sao tĩnh (Cơ Nguyệt
Với vị trí Âm Dương cư Sửu Mùi làm việc hay bỏ dở, tinh thần thất thường nên khó thành tựu hơn các cách trên mặc dù Âm Dương tại đây bình hòa không luận là xấu. Âm Dương Lương cần thiết được cách hưởng thụ nghệ thuật và hiểu biết sâu rộng.
6rIQ. 12 Th10 Thuộc cách Âm Lương gia thêm Thái Dương, không có sao chủ thị phi là Cự Môn, chỉ gồm ba sao Âm Dương Lương là ngày lành tháng tốt vì Thái Dương chủ ngày, Thái Âm chủ tháng. Bộ Âm Dương trên nguyên tắc đắc địa tại Sửu Mùi, nhưng phân rõ ra thì Âm Dương tại Sửu lợi cho nữ vì Thái Âm sáng, Âm Dương tại Mùi lợi cho nam vì Thái Dương sáng. Cách cục Nhật Nguyệt Sửu Mùi không mấy hay, vì cung Quan Lộc có Thiên Lương cư Tỵ vị trí không mấy tốt đẹp, khi mà bộ Đồng Lương không hội họp mà Thiên Đồng ở vị trí xung chiếu. Cung Tài Bạch Vô Chính Diệu được Nhật Nguyết, bên ngoài có bộ Cự Cơ ở Phúc xung, do Cự Môn đinh thị phi nên cũng không hay. “Mấy người bất hiển công danh, bởi vì Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi”, là khi Thiên Lương ngộ Hao Sát tinh, Thiên Lương chủ may mắn cũng không dễ đắc cách ở trường hợp này. Cách cục này nếu không được cát hóa thì chủ phú không chủ quý, vì cung Tài Bạch được Âm Dương chiếu hay hơn cung Quan Lộc và mệnh ở thế nhị hợp với bộ Vũ Phủ gồm hai sao chủ tài sản. Mệnh có bộ Âm Dương Sửu Mùi không nên gia thêm Kình Đà, tất sẽ gặp Song Hao, tức hình thành bộ Hao Kình hoặc Hao Đà. ” Nhật Nguyệt Dương Đà đa khắc thân”. Nếu gặp Kình Dương hoặc Đà La hỉ gặp thêm Phượng Các hình thành cách Kình Phượng hoặc Đà Phượng, lợi cho công danh nhưng bất lợi cho sức khỏe. Cung Phúc Đức do Cự Cơ đồng cung nên do chủ khía cạnh tinh thần gặp Cự Môn đến gây hiện tượng mất ngủ, hay lo toan triền miên. Khi gặp bộ Kình Đà thì hạn đến tam hợp Phúc Phối Di rất tốt, vì hình thành cách Cự Cơ Mão Dậu ngộ Song Hao, uy quyền quán thế, thuộc cách càng thay đổi càng có lợi. Âm Dương đồng cung Sửu Mùi rất cần Tuần Triệt nói nôm na như để khôi phục sức sáng, nếu hội thêm Khôi Việt chú ý không thêm Hỏa, Linh, Hình hoặc Xương Khúc Không gặp thêm Kỵ thì chủ luận Nhật Nguyệt miếu, vì ” Âm Dương hữu Xương Khúc nhi đắc lực”, ” Âm Dương ngộ Xương Khúc xuất thế vinh hoa”. ” NHẬT NGUYỆT phản bối hà vọng thanh quang tối hỉ ngoại triều KHÔI VIỆT”, trường hợp này chưa gọi là phản bối, gặp Khôi Việt rất tốt vì Khôi chủ to lớn, đứng đầu. Bộ sao Nhật Nguyệt Sửu Mùi cần gặp Khoa Lộc, tránh xa bằng được Hóa Kỵ, vì Nhật Nguyệt ở đây sức sáng chưa lớn, không dung nạp nổi Hóa Kỵ, khác với cách Nhật Mão, Nguyệt Hợi. Cách này rất ưa Lộc Tồn tại tam hợp, hình thành cách Thái Âm Lộc Tồn phú ông, chủ may mắn lâu dài, và Thiên Lương cũng hợp với Bệnh Phù hóa giải cái xấu của sao này. Với Nhật Nguyệt ở Sửu thì tuổi Bính, Mậu, Tân có Lộc Tồn tam hợp. Với Nhật Nguyệt ở Mùi thì tuổi Nhâm Ất có Lộc Tồn trong tam hợp. Với tuổi Ất thì Thái Âm Hóa Kỵ không mấy tốt vì Tử Vi Hóa Khoa, chỉ có Hóa Quyền do Thiên Lương tam hợp, hình thành cách Tồn Kỵ xấu. Tuổi Ất muốn tốt thì phải bộ Nhật Nguyệt phải ở Sửu để được hưởng bộ Long Kỵ chủ vận hội, hóa giải cho sao Hóa Kỵ. Với tuổi Canh tuy không có Lộc Tồn, ta xét đến câu phú” Nhật Nguyệt Khoa Lộc Sửu cung, đinh thị công danh”. Vì tuổi Canh được bộ Khôi Việt với Khôi ở Mùi và Việt ở Sửu thuộc cách tọa quý hướng quý, nếu không gặp Thiên Không Địa Không và Địa Kiếp thì được đủ Khoa Lộc Khôi Việt. Do Lộc Tồn tuổi Canh ở cung Thân nên Kình Dương ở cung Dậu và Đà La ở cung Mùi. Vì thế khi mệnh an tại Sửu ắt gặp cả bộ Kình Đà và Kình Dương ở đây rất độc ” Kình Dương đối thủ ở Dậu cung, Tuế diệt D… Author Tử Vi
Chỉ đồng cung tại Sửu Mùi, tạo thành “Âm Dương Sửu Mùi cách”, còn gọi là Nhật Nguyệt đồng lâm cách”. Thái Dương là trung đẩu đế tinh, nên mặc dù thuộc nhóm sao tĩnh Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật mà vẫn có nhiều tính chất xung động, mãnh liệt như nhóm “Tử Phủ Sát Phá Tham”. Ngược lại, Thái Âm là sao nhu nhuyễn, thích sự bình lặng, làm việc gì cũng muốn đạt sự toàn mỹ, mang nhiều lãng mạn tính. Hai sao hợp lại, không khỏi có nhiều mâu thuẫn. Sửu Mùi là hai cung mộ địa mang đặc tính bảo thủ, nên khuynh hướng đấu tranh của Thái Dương bị biến hóa, trở thành bất chợt, nhưng cá nhân vẫn hiếu thắng, cố chấp. Thái Dương nhiều năng lực, hăng hái xông pha, trong khi Thái Âm thích sự nhàn tản, lãng mạn. Hai sao hợp lại thường có bề ngoài mềm dẻo bề trong cứng cỏi, nhưng có lúc hoàn toàn ngược lại, rất khó xác định. Thích ở vị trí thủ lãnh, nhưng rất khó đóng trọn vai trò này là vì những mâu thuẫn như đã kể. Ưu điểm Không tham danh lợi, thích làm việc nghĩa, thích đóng vai người hùng cứu khổn phò nguy, đầu óc thông minh, học hỏi hiểu biết nhanh. Khuyết điểm Nhiều mâu thuẫn, nhiều khi suy nghĩ trước sau trái ngược, ý chí không cứng cỏi, tình cảm bất định. Luôn cho rằng mình hơn người khác, dễ trở thành bệnh tưởng. Hôn nhân thiếu hòa thuận, không gần gũi người thân. Đàm thiên thuyết địa thoại Tử Vi – Lý Phật
Bài viết phân tích trường sao Thái âm – Thái dương ở Mệnh rất đặc sắc của tác giả Lý Phật trong cuốn Đàm thiên thuyết địa thoại Tử Vi. Mời bạn đọc tham khảo. Khi Thái Âm, Thái Dương đồng cung tại Sửu Mùi, được gọi là là Âm Dương Sửu Mùi cách hay tên khác là Nhật Nguyệt Đồng Lâm cách 1. Đặc điểm Nhật Nguyệt Đồng Lâm cách Nhật là Thái Dương, là mặt trời. Nguyệt là Thái Âm, là mặt trăng. Hai vầng Nhật Nguyệt là 2 trong 14 chính tinh của khoa Tử Vi. Những đặc tính của Nhật Nguyệt rất thực tế. Mặt trời là nguồn năng lượng lớn nhất đối với qủa đất của chúng ta cho nên người có Thái Dương thủ Mệnh là người rất năng động. Dù nam hay nữ tính tình cũng có phần nóng nảy. Từ cổ chí kim mặt trăng luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho các thi nhân cho nên người có Thái Âm thủ Mệnh thường mang tính đa sầu, đa cảm. Chúng ta sẽ đi vào chi tiết hơn bản chất của mỗi sao trước khi có cái nhìn khái quát về mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm. Nhật Nguyệt Đồng Lâm cách Thái Dương là trung đẩu đế tinh, nên mặc dù thuộc nhóm sao tĩnh Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật mà vẫn có nhiều tính chất xung động, mãnh liệt như nhóm “Tử Phủ Sát Phá Tham”. Ngược lại, Thái Âm là sao nhu nhuyễn, thích sự bình lặng, làm việc gì cũng muốn đạt sự toàn mỹ, mang nhiều lãng mạn tính. Hai sao hợp lại, không khỏi có nhiều mâu thuẫn. Sửu Mùi là hai cung mộ địa mang đặc tính bảo thủ, nên khuynh hướng đấu tranh của Thái Dương bị biến hóa, trở thành bất chợt, nhưng cá nhân vẫn hiếu thắng, cố chấp. Thái Dương nhiều năng lực, hăng hái xông pha, trong khi Thái Âm thích sự nhàn tản, lãng mạn. Hai sao hợp lại thường có bề ngoài mềm dẻo bề trong cứng cỏi, nhưng có lúc hoàn toàn ngược lại, rất khó xác định. Thích ở vị trí thủ lãnh, nhưng rất khó đóng trọn vai trò này là vì những mâu thuẫn như đã kể. Khi nói đến hai sao Nhật Nguyệt, khoa Tử Vi có một nguyên tắc mà chúng ta thường nghe là “Chính bất như chiếu” nghĩa là Nhật Nguyệt chiếu Mệnh tốt hơn thủ Mệnh. Điều này nghĩ cũng hợp lý, rất thực tế. Chẳng hạn như chúng ta đặt một ngọn đèn ngay trước mặt mà đọc sách thì ánh sáng chiếu trực tiếp vào mắt sẽ làm cho mắt bị chói và mau mỏi mệt hơn là để ngọn đèn chiếu lên chụp đèn, hay chiếu vào tường rồi phản chiếu vào trang sách. Chúng ta sẽ thấy rõ ràng hơn khi đi sâu vào trường hợp Nhật Nguyệt đồng cung. Trong 12 cung của lá số, bộ Nhật Nguyệt chỉ đồng cung ở hai vị trí Sửu, Mùi tạo nên một mẫu người khá đặc biệt gọi là mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm. Nhật Nguyệt Đồng Lâm cũng giống như hiện tượng Nhật Thực, Nguyệt Thực. Nghĩa là trong một khoảng thời gian nào đó, mặt trời, mặt trăng, và trái đất cùng ở một đường thẳng. Như chúng ta đã thấy, khi Nhật Thực hay Nguyệt Thực thì mặt trăng che mặt trời hoặc mặt trời che mặt trăng, cho nên ánh sáng mờ mờ ảo ảo, ngày chẳng ra ngày, đêm cũng không giống đêm. Đó chính là nét đặc thù đầu tiên của mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm. “Những người bất hiễn công danh Cũng bởi Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi.” Ý nghĩa thật qúa rõ ràng Những người có Mệnh an tại Sửu/Mùi, có Nhật Nguyệt tọa thủ thì một đời công danh cũng như sự nghiệp khó lòng được như ý. Ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt mà chúng ta sẽ bàn đến sau. Mệnh an tại Sửu/Mùi có Nhật-Nguyệt đồng thủ, mặc dù không phải là những vị trí miếu vượng của Nhật-Nguyệt nhưng cũng là người khá thông minh vì đó là bản chất thuần túy của vầng Nhật-Nguyệt. Tuy nhiên vì hai nguồn ánh sáng nằm cùng với nhau cho nên Nhật-Nguyệt tự che lấy ánh sáng của nhau như đã nói ở trên. Vì vậy người Nhật Nguyệt Đồng Lâm có trí nhớ kém và thường hay có những quyết định lầm lẫn, mãi cho đến khi việc đã xong, quay mình nhìn lại thì mới thấy ân hận tại sao lúc đó mình làm như vậy. Nhật-Nguyệt là biểu tượng của ngày và đêm, và cũng là biểu tượng của Âm và Dương trong vũ trụ cho nên người có NN thủ hay chiếu Mệnh thường có năng khiếu về ngành điện tử, điện toán, vi tính Nhật – Nguyệt đồng cung cũng như Nhật Thực, Nguyệt Thực là khoảng thời gian mà ánh sáng và bóng tối hòa lẫn với nhau, trắng đen lẫn lộn, và như chúng ta thường gọi là lúc tranh tối tranh sáng. Bởi thế, người Nhật Nguyệt Đồng Lâm thần kinh dễ bị suy yếu, hay bị những chứng nhức đầu kinh niên, căng thẳng thần kinh, dễ bị xúc động, và chắc chắn một điều là hai mắt kém, có nhiều bệnh tật khi còn bé. Riêng đối với phái nữ, người Nhật Nguyệt Đồng Lâm mỗi lần có kinh nguyệt thường bị đau bụng dữ dội hơn những người khác. Và họ thường hay bị những chứng bệnh mà đông y gọi là bệnh khí huyết. 2. Nhật Nguyệt Đồng Lâm cách đẹp nhất khi hội họp với các phụ tinh Nếu nói như vậy, mệnh có Nhật-Nguyệt đồng thủ tại Sửu Mùi thì đây không phải là một cách tốt, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt như sau – Mệnh có Nhật Nguyệt tọa thủ tại Sửu Mùi mà có Tuần án ngữ, và được các văn tinh như Xương Khúc, Khôi Việt, Quang Quí, Thai Tọa, Đào Hồng Hỷ hội hợp thì trở nên tốt. Đây là số của những nhà văn, nhà thơ, nhà báo, những người làm ngành truyền thông, hay là giới văn nghệ sĩ danh tiếng và có địa vị trong giới văn chương, nghệ thuật. – Mệnh có Nhật Nguyệt đồng thủ tại Sửu Mùi, có Hóa Khoa, Hóa Lộc đồng cung hay xung chiếu, hay hợp chiếu thì lại trở nên tốt đẹp. Công danh sự nghiệp vững vàng, có quyền cao chức trọng trong xã hội. Cũng là Nhật Nguyệt đồng cung, nhưng đúng với nguyên tắc căn bản mà chúng ta đề cập ở trên “Nhật Nguyệt chiếu Mệnh tốt hơn thủ Mệnh” Như vậy nếu Mệnh an ở Sửu được Nhật Nguyệt đồng cung ở Mùi xung chiếu thì chắc chắn tốt hơn Nhật-Nguyệt tọa thủ tại Mệnh. Và phú Tử Vi cũng khẳng định điều này “Nhật Nguyệt đồng Mùi, Mệnh an Sửu, hầu bá chi tài.” Trong trường hợp này nếu Mệnh có Tuần án ngữ để giữ ánh sáng của Nhật-Nguyệt, và có Hóa Kỵ thủ Mệnh như vầng mây ngũ sắc làm tăng thêm độ sáng cho Nhật-Nguyệt. Được cách này, công danh phú quý càng rực rỡ và bền vững hơn. Như vậy, khi nói đến mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm, chúng ta phải phân biệt 2 trường hợp. Nếu Nhật-Nguyệt đồng thủ Mệnh thì cuộc đời được mô tả khái quát như câu “Những người bất hiển công danh, cũng vì Nhật-Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi” Nếu Nhật-Nguyệt đồng cung xung chiếu Mệnh thì công danh sự nghiệp chắc chắn sẽ trong tầm tay. Nhưng cho dù ở trường hợp nào thì mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm giống nhau ở chỗ mắt yếu, nhức đầu kinh niên, thần kinh dễ rối loạn, trí nhớ kém, phái nữ thường bị đau bụng dữ dội khi hành kinh. Năng khiếu nổi bật nhất của họ là văn chương và nghệ thuật. 3. Ưu nhược điểm của Nhât Nguyệt đồng lâm cách Ưu điểm Không tham danh lợi, thích làm việc nghĩa, thích đóng vai người hùng cứu khổn phò nguy, đầu óc thông minh, học hỏi hiểu biết nhanh. Khuyết điểm Nhiều mâu thuẫn, nhiều khi suy nghĩ trước sau trái ngược, ý chí không cứng cỏi, tình cảm bất định. Luôn cho rằng mình hơn người khác, dễ trở thành bệnh tưởng. Hôn nhân thiếu hòa thuận, không gần gũi người thân. 4. Lời kết Tóm lại, ngoài hai trường hợp vừa nêu trên, Nhật Nguyệt Đồng Lâm ở Sửu Mùi thì cuộc đời cũng được cơm no áo ấm nhưng đây là mẫu người bất đắc chí, có khả năng mà không gặp được thời vận điển hình như nhà thơ Tú Xương ngày trước. Sưu Tầm Có thể bạn quan tâm Dịch vụ xem Tử vi Thông tin cập nhật đầy đủ tại Fanpage Tử Vi Hiện Đại Xem thêm tại Cách cục Âm Dương Lương và mối liên hệ với hai chữ “tang tóc”
Thuộc cách Âm Lương gia thêm Thái Dương, không có sao chủ thị phi là Cự Môn, chỉ gồm ba sao Âm Dương Lương là ngày lành tháng tốt vì Thái Dương chủ ngày, Thái Âm chủ tháng. Bộ Âm Dương trên nguyên tắc đắc địa tại Sửu Mùi, nhưng phân rõ ra thì Âm Dương tại Sửu lợi cho nữ vì Thái Âm sáng, Âm Dương tại Mùi lợi cho nam vì Thái Dương sáng. Cách cục Nhật Nguyệt Sửu Mùi không mấy hay, vì cung Quan Lộc có Thiên Lương cư Tỵ vị trí không mấy tốt đẹp, khi mà bộ Đồng Lương không hội họp mà Thiên Đồng ở vị trí xung chiếu. Cung Tài Bạch Vô Chính Diệu được Nhật Nguyết, bên ngoài có bộ Cự Cơ ở Phúc xung, do Cự Môn đinh thị phi nên cũng không hay. “Mấy người bất hiển công danh, bởi vì Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi”, là khi Thiên Lương ngộ Hao Sát tinh, Thiên Lương chủ may mắn cũng không dễ đắc cách ở trường hợp này. Cách cục này nếu không được cát hóa thì chủ phú không chủ quý, vì cung Tài Bạch được Âm Dương chiếu hay hơn cung Quan Lộc và mệnh ở thế nhị hợp với bộ Vũ Phủ gồm hai sao chủ tài sản. Mệnh có bộ Âm Dương Sửu Mùi không nên gia thêm Kình Đà, tất sẽ gặp Song Hao, tức hình thành bộ Hao Kình hoặc Hao Đà. ” Nhật Nguyệt Dương Đà đa khắc thân”. Nếu gặp Kình Dương hoặc Đà La hỉ gặp thêm Phượng Các hình thành cách Kình Phượng hoặc Đà Phượng, lợi cho công danh nhưng bất lợi cho sức khỏe. Cung Phúc Đức do Cự Cơ đồng cung nên do chủ khía cạnh tinh thần gặp Cự Môn đến gây hiện tượng mất ngủ, hay lo toan triền miên. Khi gặp bộ Kình Đà thì hạn đến tam hợp Phúc Phối Di rất tốt, vì hình thành cách Cự Cơ Mão Dậu ngộ Song Hao, uy quyền quán thế, thuộc cách càng thay đổi càng có lợi. Âm Dương đồng cung Sửu Mùi rất cần Tuần Triệt nói nôm na như để khôi phục sức sáng, nếu hội thêm Khôi Việt chú ý không thêm Hỏa, Linh, Hình hoặc Xương Khúc Không gặp thêm Kỵ thì chủ luận Nhật Nguyệt miếu, vì ” Âm Dương hữu Xương Khúc nhi đắc lực”, ” Âm Dương ngộ Xương Khúc xuất thế vinh hoa”. ” NHẬT NGUYỆT phản bối hà vọng thanh quang tối hỉ ngoại triều KHÔI VIỆT”, trường hợp này chưa gọi là phản bối, gặp Khôi Việt rất tốt vì Khôi chủ to lớn, đứng đầu. Bộ sao Nhật Nguyệt Sửu Mùi cần gặp Khoa Lộc, tránh xa bằng được Hóa Kỵ, vì Nhật Nguyệt ở đây sức sáng chưa lớn, không dung nạp nổi Hóa Kỵ, khác với cách Nhật Mão, Nguyệt Hợi. Cách này rất ưa Lộc Tồn tại tam hợp, hình thành cách Thái Âm Lộc Tồn phú ông, chủ may mắn lâu dài, và Thiên Lương cũng hợp với Bệnh Phù hóa giải cái xấu của sao này. Với Nhật Nguyệt ở Sửu thì tuổi Bính, Mậu, Tân có Lộc Tồn tam hợp. Với Nhật Nguyệt ở Mùi thì tuổi Nhâm Ất có Lộc Tồn trong tam hợp. Với tuổi Ất thì Thái Âm Hóa Kỵ không mấy tốt vì Tử Vi Hóa Khoa, chỉ có Hóa Quyền do Thiên Lương tam hợp, hình thành cách Tồn Kỵ xấu. Tuổi Ất muốn tốt thì phải bộ Nhật Nguyệt phải ở Sửu để được hưởng bộ Long Kỵ chủ vận hội, hóa giải cho sao Hóa Kỵ. Với tuổi Canh tuy không có Lộc Tồn, ta xét đến câu phú” Nhật Nguyệt Khoa Lộc Sửu cung, đinh thị công danh”. Vì tuổi Canh được bộ Khôi Việt với Khôi ở Mùi và Việt ở Sửu thuộc cách tọa quý hướng quý, nếu không gặp Thiên Không Địa Không và Địa Kiếp thì được đủ Khoa Lộc Khôi Việt. Do Lộc Tồn tuổi Canh ở cung Thân nên Kình Dương ở cung Dậu và Đà La ở cung Mùi. Vì thế khi mệnh an tại Sửu ắt gặp cả bộ Kình Đà và Kình Dương ở đây rất độc ” Kình Dương đối thủ ở Dậu cung, Tuế diệt Dương Đà Canh Mệnh hung”. Phượng Các không thể an trong tam hợp này để cứu giải cho Kình Dương, vậy tuổi Canh không thể tốt như câu phú trên,nhưng cũng có điểm tốt vì được bộ Khôi Khoa Kình, chủ có được sự nghiệp sớm hơn và thành công hơn người khác. Nhưng không còn trường hợp nào được hưởng bộ Khoa Hóa Lộc trong tất cả các thiên can, vì vậy Lộc ở đây chính là Lộc Tồn vì khi đó tránh được bộ Kình Đà kỵ cho Âm Dương. Vì vậy, tuổi Bình Mậu Tân đều có thể hình thành bộ Khoa Lộc. Với tuổi Bính thì Văn Xương Hóa Khoa, tuổi Mậu là Hữu Bật Hóa Khoa, tuổi Tân là Văn Khúc Hóa Khoa. Do tuổi Tân thì Khôi Việt ở Ngọ Dần nên loại vì Nhật Nguyệt Sửu Mùi rất cần Khôi Việt. Tuổi Bính thì có Việt, không có Khôi vì Thiên Khôi ở cung Hợi. Vậy còn tuổi Mậu được cả bộ Khôi Việt ở Sửu Mùi thuộc cách tọa quý hướng quý, được bộ Hồng Loan Tướng Quân, đủ bộ Khoa Quyền Lộc Lộc Tồn , Khôi Việt rất đẹp. “Nhật Nguyệt Sửu Mùi ái ngộ Tuần Không, Quý, Ân, Xương, Khúc ngoại Triều, Văn tất Thượng Cách”. Khi Nhật Nguyệt Sửu Mùi được Tuần tại bản cung đã là tốt, thêm Xương Khúc Quang Quý rất tốt, vì vậy cách cục Nhật Nguyệt đồng cư Sửu Mùi không thể luận là bất cát, tốt hay xấu là do hợp cách hay không hợp. Không giống một số cách như Thất Sát Thìn Tuất, Vũ Phá Tị Hợi cần phải cát tinh phù hợp và thêm một trong Tam Hóa mới có thể trở thành tốt đẹp. Dẫn theo trang
BỘ ÂM DƯƠNG Sửu 2 sao THÁI ÂM, THÁI DƯƠNG. Gọi tắt là ÂM DƯƠNG hoặc NHẬT XÉTTại đây dễ gặp các cách giáp hay. Đăc biệt giáp XƯƠNG KHÚC trong trường hợp nầy có câu “XƯƠNG KHÚC giáp trì nam Mệnh quí nhi thả hiển”. Thực chất đây là bộ ÂM LƯƠNG gia thêm THÁI DƯƠNG hình thành tại đây bộ NHẬT NGUYỆT. NHẬT NGUYỆT tại Sửu ví như buổi bình minh Âm dần tàng, Dương bắt đầu sáng. Tại Mùi dương sắp tàn âm sắp vượng. Trong nầy có chứa đựng cách DƯƠNG LƯƠNG nhưng LƯƠNG ở đây không may mắn lắm. Nhưng Dương Lương tại Sửu vẫn còn hy vọng đẹp. Nhưng nói chung tùy thuộc Hung, Cát tinh kết luận mà thôi. Bộ NHẬT NGUYỆT khi xấu là ÂM DƯƠNG điên đảo, ÂM DƯƠNG điên đảo là sao? Là phụ nữ có khi lấn quyền nam ĐOÁN CÁC CHI TIẾT SAUBÌNH MINH và HOÀNG HÔNÂM DƯƠNG tại ảnh. Đây là nơi giao hòa của Âm và Dương tại Sửu thiên về âm tàn, dương sắp thịnh, buổi bình minh đang đến hoặc sắp đến, lợi cho DƯƠNG hơn là ÂM. Tức là lợi cho nam hơn là nữ. Lợi cho hành bản MỆNH thiên về Hỏa như Thổ, Mộc. Vì THÁI DƯƠNG thuộc hành Hỏa. Lợi cho sự công khai hơn âm thầm. Lợi cho công việc thiên về ban ngày hơn ban đêm…ÂM ƯƠNG tại Mùi. Là cảnh chiều tà, là hoàng hôn buông xuống. Dương tàn Âm sắp thịnh hứa hẹn một đêm dài, đêm vui hay đêm buồn tùy từng trường hợp hợp ta mới biết được. Lợi Âm hơn Dương, lợi nữ hơn nam, lợi cho hành Thủy hoặc tương sinh như Kim, Thổ. Vì THÁI ÂM thuộc hành thủy. Lợi cho sự âm thầm hơn là công khai. Lợi cho công việc thiên về ban đêm hơn ban ngày…ÂM DƯƠNG HÒA là cảnh Âm Dương giao hòa của trời và trăng, của ngày và đêm, của trai và gái nếu như không có Hung Kỵ Hình tinh cảnh bình minh’ báo hiệu một ngày lành THIÊN LƯƠNG và hoàng hôn’ báo hiệu một đêm an vui bắt đầu. Chúng ta thường chúc nhau một ngày may mắn là đây. Dương Lương một ngày may mắn, một ngày tốt lành.NGÀY VÀ ĐÊMVất vả từ sáng sớm đến nửa đêm, một nắng hai sương. Buôn bán cả ngày lẩn đêmNgày chẳng yên đêm chẳng vui... tuỳ thuộc hung cát tinh để quyết là ngày đêm yên vui. Xấu là khổ, buồn, cực cả ngày lẫn đêm. Đêm còn nghe tiếng người công việc làm ban ngày đêm về nghĩ ngơi. Có người công việc khi đêm xuống, nhưng cũng có người đi từ khi hoặc làm từ khi còn sơm tinh mơ và trở về hoặc thôi làm khi đêm đã xuống. Thấy được cái cảnh một nắng 2 sương sương mai và sương đêm. Nhưng cũng có thể là niềm vui như có nhiều thu nhập lớn, đáng buồn có người vất vả thì nhiều hưởng chẳng bao nhiêu. Bộ ÂM DƯƠNG cho thấy cái cảnh suốt ngày, suốt đêm có thể là cảnh đầu tắt mặt tối nắng trên đầu đã tắt, mặt tối sầm lại cảnh suốt ngày ăn chơi đàn đúm, cờ bạc rượu chè, cảnh các chiến binh phải suốt ngày canh gác chiến đấu…. tùy hình ảnh ta nhìn thấy sao ta được quyền mô tả vậy. Nó học hành viết lách suốt đêm ngày, đó là hình ảnh và THÁNG* Ngày tháng trôi qua, vui buồn, vinh nhục… Đây là yếu tố giúp ta đoán được thời gian. Thái Âm còn chủ tháng, THÁI DƯƠNG chủ ngày . Nếu có THÁI TUẾ chủ năm ta có bộ tam Thái. Từ những yếu tố nầy trình độ cao hơn ta có thể đoán được bao nhiêu năm tháng hạnh phúc hay tai họa, đau ốm bao nhiêu lâu thì khỏi… Chỉ cần bạn nhớ cho ngày và tháng là tốt rồi. Như Những ngày tháng qua đi khi ta còn ngồi lại… Ngày và Đêm là những đề tài muôn thuở được khai thác nhiều, như thương như tiếc những ngày tháng trôi qua mà chẳng làm được chuyện gì có ích cho gia đình hay xã hội. Để khi cái chết cận kề thấy tiếc những người có bộ Âm Dương không phân biệt Âm Dương Sửu Mùi, Âm Dương Tỵ Dậu, Âm Dương Thìn Tuất, Âm Dương Mão Hợi dễ cảm xúc về ngày tháng, về đêm và ngày, về cái vất vả của ngày, cái buồn vương về đêm. Như Thương ai về ngõ tối. Sương rơi ướt đôi môi. Thương ai buồn kiếp người. Lạnh lùng ánh sao rơi. Thương ai về ngõ tối. Bao nhiêu lá rơi rơi. Thương ai cười không nói. Ngập ngừng lá hôn vai. Buồn kiếp người Tang Kiếp. Lạnh lùng ánh sao rơi LINH TINH khi xấu là vì sao rụng, là chiếc lá rơi rơi. Cười không nói là THIÊN LƯƠNG nông cạn, nói cũng chẳng ích gì thâm sâu để làm chi. Kẻ bán người mua thế đủ rồi. Đó là hình ảnh buồn do TCS vẽ ra trong đầu, hoặc chính là hình ảnh thấy trong vô thức lá số TỬ VI của ông ta. THÁI ÂM + TANG KIẾP+ LINH. Người đàn bà của TCS. Và thương ai là bộ HÀ TƯỚNG QUÂN nằm ở đó. Khi ta dùng đến ngày… tháng … năm … tức là lúc ta có việc quan trọng mới dùng đến ngày tháng năm. Ví dụ ngày…tháng… năm Kỷ Dậu. Em ơi! Từ mặt trận anh viết vội thư này gởi về em… Từ đây nếu hỏa khí Hỏa Linh Kình Đà là những ngày khói lửa chiến tranh, nếu hòa bình là những ngày vất vả vì lịnh lạc khẩn cấp không phải những ngày tháng êm đềm luôn luôn có chuyện khẩn… Nếu có KHÔNG KIẾP là ngày tháng Không May… Tùy theo cái ta nhìn thấy mô tả nó một cách trung thực khi ta có dữ liệu sơ sở. Nếu không lấy gì mô tả, có chăng là nói bậy tùy hứng mà thôi, may nhờ rủi chịu, đúng sai không LÀNH THÁNG TỐT…Âm Dương ngộ Lương là ngày lành tháng tốt yếu tố này áp dụng cho tất cả cách ÂM DƯƠNG có LƯƠNG nhưng ở vị trí này THIÊN LƯƠNG không may mắn lắm đừng hiểu lầm là lạc hãm, hóa là bất lương. Lương cần đi với Phúc là phúc duyên, đi với cơ là cơ duyên. Hạnh Phúc đâu phải chỉ cơm ăn áo mặc cần có tiếng nói trẻ con THIÊN ĐỒNG, cần có căn nhà THIÊN CƠ cơ ngơi… như vậy phải hiểu không may mắn lắm là như vậy… Bộ ÂM DƯƠNG LƯƠNG chưa hoàn chỉnh. Ý Bửu Đình nói là như vậy đấy. Nếu bất lương hay không thì có các sao KHÔNG KIẾP KỴ HÌNH nó nói. Nói một cách dễ hiểu tinh là chủ từ, bàng tinh là túc từ. Tôi muốn là THAM LANG, tôi muốn ăn roi là THAM HÌNH, Tôi muốn yêu thương là TƯỚNG QUÂN, Tôi muốn phục vụ cho Bửu Đình. THAM PHỤC BINH + Bửu Đình. Quá dễ phải không. Phục vụ cho cái xấu + KHÔNG KIẾP vào. Đúng không? Bởi thế người viết đã từng viết những lá số đến 50 trang vở học trò là bình thường. Cứ tặng Đình một sổ carnet một cây bút là thấy khổ rồi, sẽ chết vì chấm TỬ VI. Đâu phải lá số nào cũng dễ nói, né qua tránh lại thiếu trung lành tháng tốt là một yếu tố quan trọng trong xây dựng gia đình, nhà cửa… và sinh ra đời được bộ NHẬT NGUYỆT như Sửu Mùi và các cách NHẬT NGUYỆT khác có THIÊN LƯƠNG mà không có Sát Tinh Kỵ Hình được xem như là sinh vào ngày lành tháng tốt. Từ đó có ngày Sinh Nhật, cao hơn là Đản Sinh của Phật, Giáng Sinh của Chúa. Nếu ta sinh vào những tháng ngày khói lửa mặc dù không có cách đó tại MỆNH. Sau nầy có dịp chúng ta sẽ nếm khói lửa thời chiến, khói lửa thời bình, khói lửa ngay chính trong căn nhà chúng ta. Chứ đừng nói rằng, làm gì có chiến tranh trong khi cả thế giới nói chung đang hòa bình. Chiến tranh ngay trong nhà của bạn. Với những ngày không yên đêm không vui, đó là nhẹ nhàng. Ngày hồi hộp đêm lo sợ, chết đi còn sướng hơn. Đôi khi sự thật rất cay đắng. Tốt nhất tự đoán số cho mình là hay nhất. Từ đó, nên TRIỆT đi, xóa đi những hình khắc bắt bẻ, những đòi hỏi thái quá, những ghen tị những cái mình không thể có. Mà người thân mình cũng không thể thỏa mãn cho mình được. Hiểu biết TỬ VI coi như đã đi tu rồi, mĩm cười với HÓA KỴ, vẫy tay với KÌNH DƯƠNG, sẵn sàng vui với ĐÀ LA một đoạn, HỎA TINH ta chọn nhiệt tình, LINH TINH ta chọn sáng suốt, KHÔNG KIẾP ta lấy sợ nạn mà không làm chứ đừng không ngờ gặp nạn. Như vậy là cải số với trời chứ không cãi cọ với VI Ứng Dụng đem lại cho bạn niềm an vui với số phận. Và Số THIÊN CƠ một nơi Phận TỬ VI một ngã, số phận gặp nhau là số phận đã an bài. Việc làm hôm nay là việc làm trong định số của người viết. Một người có ngôi TỬ VI TẤU THƯ tại MỆNH hạn tại CƠ ĐỒNG BINH NỮ, ĐÀN ÔNG, ĐÀN BÀ, TRAI GÁI Đây là vị trí cả nam lẩn nữ giao hội với nhau với THIÊN LƯƠNG là phơi bày. Quan trọng là phơi bày cái gì? Phơi bày tâm sự. Đó là hình ảnh bên anh đọc sách bên nàng quay tơ, bên sông em giặt lụa trên cầu anh đứng trông, hay bên hiên anh thơ thẩn trong song em lặng nhìn… và sau đó THIÊN LƯƠNG phơi bày tâm sự, cũng từ đó lại chọn ngày lành tháng tốt để anh đến nhà em, để trình bày chứ không phơi bày nhé nếu như không có bọn KỴ ĐÀ cản mũi… cứ thế khi nên vợ nên chồng phơi bày cái gì sau đó chắc bạn thừa hiểu, có điều đáng nói là Đình không bày nhưng bạn lại làm rất tốt, cái Đình bày cho lại phản đối?Nhưng vậy cách ÂM DƯƠNG LƯƠNG có hàm ý dâm tính ở bên trong, tùy dâm tinh tụ tập nhiều hay ít để luận TRAI và LƯƠNG THỰC, LƯƠNG nên vợ nên chồng vấn đề cái ăn trở nên bức thiết. Tại đây ta chỉ có lương thực chứ chưa phải là cách Đồng Lương là lương tiền từ ruộng đồng sinh ra lương thực chuyển qua lương tiền Vì thế bị đánh giá là kém hay như đã giải thích ở trên. Cho nên dẫu sao có THIÊN LƯƠNG là may mắn rồi. Nếu như không có nó thì sao?GÁI TRAI và một mái đây ta chỉ thấy đôi trai gái và một mái nhà đó là THIÊN LƯƠNG chủ nóc nhà THÁI ÂM chủ thềm trong, THÁI DƯƠNG chủ thềm ngoài. Nóc và thềm thôi chư đâu phải là cơ ngơi như THIÊN CƠ vì thế khiếm khuyết về nhà cửa chưa hoàn chỉnh nhưng có THIÊN LƯƠNG này cũng có bóng mát cuộc đời, dù là không cao ĐỘNG DẬY LÊN. ÂM THANH DẬY LÊN THÁI ÂM chủ tiếng động. THÁI DƯƠNG chủ dậy lên, phát lên. Tiếng động phát ra có thể lời văn hay ý tốt, là tiếng nhạc tiếng đàn, lời ca tiếng hát nếu đi với XƯƠNG KHÚC và bây giờ nếu bạn còn thắc không khi có người nói “ÂM DƯƠNG hữu XƯƠNG KHÚC nhi đắc lực” chỉ câu này thôi là hay biết bao nhiêu. Ngần ấy thôi là thấy có công danh, có nghề nghiệp có niềm vui. Vậy thì bộ ÂM DƯƠNG rất cần gặp THANH LONG chủ tiếng nói, hoặc HỒNG LOAN la to’ tiếng nói vui mừng đi với HỈ HỒNG ĐÀO nhưng có thể lời than, tiếng khóc, chưởi rủa, bôi nhọ khi đi với thị phi tinh, sầu tinh… từ đó hướng luận đoán nhiều vô số Dương Lương là tiếng động phát lên bày tỏ ra, phơi bày ra. Chúng ta chưa biết rõ họ dùng tiếng động đó để làm gì, tín hiệu vui hay cầu cứu SOS. Nếu là tiếng nói. Ồ nói năng có văn hóa nhỉ, nghe được đấy. Là nhờ bởi XƯƠNG KHÚC. Nghe vui tai là đi với ĐÀO HỒNG HỈ, nghe như trăm oán nghìn sầu là đi với TANG KHỐC ĐƯỜNG LA. Sao mà nghe vô văn hóa, chưởi bới… Nhìn sao nói vậy, nghe sao viết SAO CHỦ ẨN, MỘT SAO CHỦ HIỆN, HIDE và SHOWNào chúng ta vào Tools nhấn Foder Option muốn ẩn thư mục nào ta chon hide. Đúng chưa. Biết rồi khổ lắm. Hà hà…Ẩn là THÁI ÂM tên thiệt của y là âm thầm thái quá’ và THÁI DƯƠNG là công khai thái quá’. Khi cần ẩn là ẩn khi cần hiện là hiện, biến hóa vô lường. Khi ta có 2 yếu tố nầy khi vui ta hiện khi buồn ta bay. Khi nguy biến phải thoát ngay. Nếu không gặp chuyện đắng cay vô ẩn, thoắt hiện là bộ sao nầy. Như trong vi tính có chức năng Hide’. Tốt là khi cần ẩn thì ẩn, khi cần hiện lại hiện ra. Xấu là khi cần ẩn lại hiện, khi cần hiện ra lại ẩn. Nhận xét chung vừa ẩn, vừa hiện là một yếu tố rất hay. Ví dụ Như cô ca sĩ hát xong lui vào sân khấu chẳng lê đứng hát hoài, như một chiến binh khi cần phục kích phải ẩn núp kín đáo, khi cần xung phong lại hiện ra khiến địch quân khiếp vía, nếu núp nữa coi cũng kỳ. Và đến đây bạn thấy đó không phải vô cớ Bửu Đình lại phân biệt nhóm sao ẩn hiện. Vì từ đó chúng ta đến THÁI ÂM đôi khi là sao tốt đẹp nhưng thật ra nó không lợi cho ta là bao nhiêu, trong khi ta ưa dương, ưa lộ, ưa phơi, ưa khoe. Vậy thì THÁI ÂM thuộc nhóm ẩn như TỬ VI THIÊN PHỦ ĐÀ TUẦN. THÁI DƯƠNG thuộc nhóm lộ THIÊN LƯƠNG TRIỆT KÌNH. Và xem tiếp càng về sau càng hấp dẫn lôi cuốn không chán phèo. Có thế mới là kỳ TỐI và̀ ÁNH SÁNG. ĐEN TỐI, MỜ ÁM và RÕ RÀNG, SÁNG SỦAKẻ trong bóng tối, người ngoài ánh sáng là đây. Khi cần thì khuất vào bóng tối, khi cần xuất hiện ra ngoài ánh sáng. Cũng như khi cần tắt đèn, khi cần mở đèn. Khi có 2 yếu tố nầy cũng có thể rất nguy hiểm vì có thể làm những chuyện mờ ám, vì thế nó luôn luôn nhị hợp với một sao thủ đoạn là VŨ KHÚC. Đọc tiếp phần dưới ta sẽ rõ THẦM VÀ CÔNG KHAITHÁI ÂM chủ âm thầm, lén lút, mờ ám THÁI DƯƠNG chủ công khai, hợp pháp, minh bạch rõ ràngVí dụ Về mặt công khai đó là công ty bay công ty hoá chất, vận tải, cửa hàng ăn uống... nhưng dằng sau đó âm thầm mua bán vận chuyển, trao đổi... ma tuý vũ khí, tiền giả.... Hoặc là nơi chứa chấp cung cấp... bọn khủng bô ́gián điệp, đĩ điếm...Đây là bộ sao mang 2 bộ mặt khác nhau. Một bộ mặt hợp pháp, công khai một bộ mặt xã hội đen, buôn lậu, thế lực chống đối hoặc âm thầm, lén lút, mờ ám làm chuyện bất chính. Xung đột mâu thuẩn một bên mờ ám, lén lút, âm thầm và một bên công khai rõ ràng minh bạch như mặt trời với mặt trăng, như ban ngày không thể gặp ban dẫu sao xét cho cùng, đây cũng là một yếu tố rất hay. Có những cái ta cần âm thầm, có những cái ta cần công khai. Cái quan trọng là âm thầm cái gì? Công khai cái chi?. Đối với người, ta có thể âm thầm thương nhưng công khai la mắng, trong kinh doanh ta cũng có những cái âm thầm ngay nhân viên cũng không được tiết lộ, còn hàng hóa tất nhiên cần được công khai rồi. Trong Quân Sự, Chính Trị yếu tố nầy càng mạnh mẽ, trong âm thầm làm một đường, nhưng công khai làm một nẻo...Đây là bộ sao phù hợp với một số người, nhưng bất bình cho một số khác. Điển hình là những người thuần dương THÁI DƯƠNG như THÁI DƯƠNG tại Tí Ngọ Dần luận là kết quả của Sát tinh có hay không? ĐÀO KỴ KIẾP có hay không? Có tạo ra tai họa cho người không?Tôi âm thầm học tập nghiên cứu. Nay công khai tuyên bố là…con vi khuẩn D35 có thể chữa bịnh cho người lãnh âm thầm theo dõi người ấy lâu lắm rồi. Cô ấy là người rất tốt. Nay con công khai đến đây xin phép …Công khai đưa người cửa trước, âm thầm rước người cửa sau… Vầy thì cái âm thầm thuộc dạng âm mưu sợ gì? Sợ bại giờ giải thích với bạn rằng Bộ NHẬT NGUYỆT rất khoái bộ TANG HƯ KHÁCH và rất kỵ TRIỆT đáo thầm và công khai tốt xấu tùy mục thầm để một mai dương lên, vươn lên là đặc tính của bộ sao nầy. Một người có bộ Âm Dương tối tăm về già cuộc đời càng sáng sủa. Thuở trẻ thường hay chịu cảnh tối và MẮT. NHỮNG ĐIỀU TRÔNG sách TỬ VI thường cho là Bộ ÂM DƯƠNG là đôi mắt, điều nầy không có gì bàn cãi. Có chăng là THÁI ÂM còn đãm nhiệm sự nghe. THÁI DƯƠNG đảm nhiệm sự thấy. 5 ngũ quan là Tai mắt mũi miệng và tay chân. Tay chân ta có THIÊN MÃ đúng rồi, CỰ MÔN là cái miệng ăn nói. Cái mũi, trời ơi! Cái mũi là cái nghệ sỹ… chưa bao giờ đề cập hoặc đề cập một cách kín đáo khó nhận biết. Nào là Anh nhớ mắt môi em mĩm cười… má em gầy, vai em gầy guộc từng sợi nhỏ là cái chi?, dài tay em mấy thuở mắt xanh sao. Có ai nhớ cái mũi đâu mà nữ giới đi sửa mũi làm gì tốn tiền vậy chứ. Nhưng Vua Tự Đức viếtĐập cổ kính ra tìm lấy bóng. Xếp tà y lại để dành hơi. Và cũng chỉ nói cái mũi của mình thôi. Người có văn hóa đập phá cũng có văn hóa. Qua Trần Thiện Thanh là Gương xưa còn đó nhưng bóng người nào thấy đâu. Áo xưa còn đó nhưng mùi hương phai nhạt rồi… trong Từ đó em buồn’Và cái mũi là ngôi sao THAM LANG. Đập phá để ngửi xin cám ơn vua Tự Đức* Là thấy tận mắt, là nghe tận tai. Những điều ấy đem đi tố cáo với người khác trở thành 'tai mắt' cho người, có khi là cho địch, có lúc lại đem loan truyền… Cũng có khi không thấy tận mắt, chẳng nghe tận tai nhưng quả quyết là tai nghe mắt thấy.* Là tai nghe chuyện vui, mắt thấy chuyện mừng. Tai nghe những cái hay, mắt thấy những cái đẹp…* Cũng là tai nghe mắt thấy những chuyện chướng tai gai mắt, những chuyện không muốn nghe phải nghe, những chuyện không muốn thấy phải nhìn.* Cũng là tai nghe mắt thấy nhưng tai nghe không tiếp thu, mắt thấy mà không hiểu. Tốt là nghe một hiểu mười, thấy một cái hiểu nhiều cái. * Có tai như điếc, có mắt như mù, có cũng như không. * Tốt là tai thính, mắt sáng. Xấu là tai điếc mắt mù. Có cả bộ môn cho Khoa Tai Mắt Múi Nguyễn Du bộ ÂM DƯƠNG là những điều trông thấy."Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. "Lần nữa ta lại thấy giá trị của câu Âm Dương hữu XƯƠNG KHÚC nhi đắc lực. Được nghe được xem và được nói về văn học nghệ thuật. So sánh với cái dò xét theo dõi đáng sợ của Liêm Trinh, cái quan sát của THẤT SÁT, xem xét của THIÊN TƯỚNG và THÁI DƯƠNG dương mắt ngó nhưng một hôm THÁI DƯƠNG dương mắt ngó xong rồi cãi nhưng nó không nằm tại đây.SỐNG DỞ CHẾT DỞ, DỞ SỐNG DỞ CHẾT, ÂM DƯƠNG bàng hoàng * Khi xấu bộ sao nầy rơi vào trạng thái dở sống dở chết. Âm chẳng ra người âm, dương chẳng ra người dương, sống cuộc đời thực vật. Cũng như mọi bộ sao khácBộ ÂM DƯƠNG cư Sửu cần gặp và kị gặp CẦN GẶPTAM MINHĐÀO HỒNG HỈ xem mục “Tiếng động dậy lên”“Mệnh cư ĐÀO, HỈ hướng TỬ, DƯƠNG THÁI DƯƠNG phú quí khả kì. Thân hữu HỒNG, ĐÀO, THAI TOẠ nhi công danh khả tất”Tức MỆNH có TỬ VI hay THÁI DƯƠNG đi với ĐÀO Vui, Hỉ Mừng phú quý lạ kỳ Dĩ nhiên không gặp thêm Hung tinh. Thân có 4 sao ĐÀO HỒNG THAI TỌA tất có công danh ngồi cao la lớn không có công danh sao được XƯƠNG KHÚC mới đắc lực, phú quí vinh hoa. Phú viết ÂM DƯƠNG hữu XƯƠNG KHÚC nhi đắc lực.” hoặc Phú quý vinh hoa. Cũng như bộ TỬ PHỦ cần Tả Hữu bộ sao hành động cần người giúp đỡ. Bộ ÂM DƯƠNG đa phương tiện Multidial cần đi với bộ Nghệ Thuật XƯƠNG KHÚC .BÁT TOẠ Xuất nhập nơi quyền quí. Hợp cách.“BÁT TOẠ hướng THÁI DƯƠNG thị tụng ư cung cấm’. Hình ảnh người đàn ông ngồi trên đài cao. Đặc biệt sao THÁI DƯƠNG rất ái mộ sao LỘC “NHẬT NGUYỆT KHOA LỘC Sửu cung định thị công danh. QUÍ ÂN, THAI TOẠ, KHÔI HỒNG. văn tài nguỵ lý xuất xử thành công”. Đi với KHOA LỘC tất thị có công danh ở đây không thể có đủ bộ 3 sao KHOA QUYỀN LỘC TUẦN KHÔNG “NHẬT NGUYỆT Sửu Mùi ái ngộ TUẦN KHÔNG. QUÍ ÂN XƯƠNG KHÚC ngoại triều văn tất thượng cách đường quan xuất chính”. Vì Tuần chủ tập trung vào, thu hút vào, nhân vật quan trọng vì văn tài XƯƠNG KHÚC, và bộ QUÍ ÂN chủ ân thưởng vẽ vang. Để giải thích câu phú này cả một loạt tiểu mục để minh chứng. Nếu Âm Dương đắc cách là tiếng nói của một nhân vật quan trọng có văn tài rất vẽ vang, tập trung tuần mà nghe. LỘC TỒN “THÁI ÂM, VŨ KHÚC, LỘC TỒN đồng. TẢ HỮU tương phùng phú quí ông”Tức THÁI ÂM + LỘC TỒN + TẢ HỮU, hoặc VŨ KHÚC đi với TỒN TẢ HỮU. Có LỘC TỒN không còn lo lắng bộ KÌNH ĐÀ phức tạp xuất hiện. Bộ LỘC TỒN TẢ HỮU đi với sao nào cũng hay trừ trường hợp đi với SÁT PHÁ, TUẾ Tam thái cách. Thái sư, Thái phó, Thái bảo… mơ hồ khó đạt được cần có KHOA LỘC. Làm thái sư phụ dễ gặp. KỊ GẶPTAM ÁM DIÊU ĐÀ KỊ. Tai nghe mắt thấy bị ám rồi còn nghe thấy chi nữa. Nếu MỆNH có bộ NHẬT NGUYỆT hạn đến bộ tam Ám là xui nhất. Đây là 2 bộ sao kỵ nhau TINH Phi lễ thành hôn đối với nam “Âm phùng Hao tú một phương. Thành hôn chẳng lọ là đường cưới xin.” Vì khi có HAO tức THÁI ÂM ngộ ĐÀ hay ngộ KÌNHĐÀ LA Mệnh cung kị NGUYỆT ngộ ĐÀ LA có tính loạn dâm. Âm ám chủ bị nữ lôi ĐÀ Đa khắc thân. Nhân ly tài tán. Vì hình thành các bộ ÂM KÌNH, DƯƠNG KÌNH ÂM ĐÀ, ÂM KÌNH tức âm thầm hay công khai chống đối 2 giới nam và cả nữ trong gia đình đa khắc thân khắc nhiều người thân. Từ đó vui thì sống, buồn thì đi nhân ly tài tán là thế.KÌNH DƯƠNG ”TUẦN TRIỆT bất khả LỘC TỒN tư cơ phá bại. DƯƠNG NHẪN bất nghi NHẬT NGUYỆT bệnh tật triền miên”. KÌNH ở đây còn chủ phải chống đỡ với nhưng nguy cơ âm thầm trong thân thể của mình chứ tui không chống ai hết“THÁI ÂM ngộ DƯƠNG ĐÀ tất chủ nhân ly tài tán DƯƠNG NHẨN bất nghi NHẬT NGUYỆT bệnh tật triền miên”VIỆT LINH HÌNH Phòng sấm sét, búa Tất cả đều lộ ra hết, y như cặp trai gái nằm phơi bày lồ lộ. Cái lộ đó càng cay đắng hơn nếu như có chén thuốc đắng HÓA KỴ bên cạnh, nếu như thuốc độc không ngại gì mà không cả Âm Mưu, tất cả sự thầm kín sẽ bị phơi bày THIÊN LƯƠNG công khai hoặc đưa ra ánh sáng THÁI DƯƠNG. Xấu tốt do hung, cát tinh mà thôi. Tụ tập nhiều hay ít. Biết bao nhiêu người bị chết… cháy vì cách nầy. Như đã nói cách này không được hoàn chỉnh… vì thiếu một ngôi sao THIÊN ĐỒNG thâm sâu, ngôi sao THIÊN CƠ tính toán kỹ. Vì thế ta ít khi gặp lá số Âm Dương tốt. Nếu không có gì xấu xa khi bị lộ mà rất dễ lộ. sao TRIỆT cứ chu kỳ 5 năm đến thăm Sửu Mùi một lần, có lúc rủ thêm Kỵ thế là họa đến không làm điều xấu xa bị phơi bày ra ánh sáng có khi quảng cáo cho mình. Ờ cái đó là âm mưu à! Cái đó là âm thầm giúp đỡ mà thôi. Tại anh ghét anh nói vậy nhiên những âm thầm nguy hiểm Kỵ Kiếp chưa kịp tạo ra có khi bị bóp chết trong trứng nước là vì đây người viết cần giải thích thêm. Ý người viết nói tại đây có bộ KỴ KIẾP, tức tại bản cung, tam hợp cung hội họp. Nếu có bộ này nằm ở cung xung chiếu mang ý khác. Bản cung có Kỵ cung xung chiếu có KIẾP mang ý khác và ngược lại, bản cung có Kiếp xung chiếu có KỴ tất phải mang ký khác. Ví dụ nội Kỵ ngoại Kiếp Tại anh ăn hiếp tức là KIẾP tui, nên tui mới ghét kỵ anh. Vi dụ Nội Kiếp ngoại Kỵ Ê mày dám chê vì Kỵ xung tao hả? Tao sẽ ức hiếp mày bằng thích. Giải thích rất bình dân, thực tế như vậy không biết bạn có hiểu kịp không? Hay bạn ưa nghe mơ hồ cần phân biệt thế xung và hợp, nói như vậy 10 người chỉ có 1 người lanh trí hiểu. KHÔNG KIẾP “NHẬT NGUYỆT sát hội nam đa gian đạo nữ đa dâm”Không cần giải thích bạn cũng hiểu. Đôi trai gái trời ơi HAY RẤT DỄ GẶPTại vị trí Sửu Mùi thường dễ gặp các bộ sao đôi hợp chiếu và dễ gặp các cách giáp như Long Phượng kề cận quý nhân, Thai Tọa công danh, nhàn hạ, Quang Quí ân thưởng vẽ vang. Hay nhất là giáp XƯƠNG KHÚC ví như tay trái xem sách, tay phải chơi đàn, 2 cung phụ mẫu huynh đệ là giới văn nghệ sỹ. Có câu“XƯƠNG KHÚC giáp trì nam Mệnh quí nhi thả hiển”. Trì là tên riêng của Âm Dương, Quế trì là THÁI ÂM, đan trì là THÁI SỐ CÂU PHÚ LIÊN QUAN .Ghi lại đây một số câu phú có liên quan, quan điểm một số nhận xét của người xưa. “NHẬT NGUYỆT Sửu Mùi. ÂM DƯƠNG hổn hợp tự giảm quang huy kị phùng sát tinh, nhược lai văn diệu, diệc kiến QUÍ ÂN, THAI TOẠ, KHÔI HỒNG văn tài nguỵ lý xuất xử thành công”Tự giảm quang huy. Đình không đồng ý. Đã giải thích ở đầu bài ở Sửu lợi cho THÁI DƯƠNG ở Mùi lợi cho THÁI ÂM. Văn tài nguỵ lý cũng không đồng ý vì các bàng tinh sẽ đánh giá công việc ấy như HƯ PHÁ, PHI LIÊM.“NHẬT NGUYỆT Sửu Mùi ái ngộ TUẦN KHÔNG. QUÍ ÂN XƯƠNG KHÚC ngoại triều văn tất thượng cách đường quan xuất chính” “Mấy người bất hiển công danh. Vì chưng NHẬT NGUYỆT đồng tranh Sửu Mùi”Ngày xưa KHHB tranh luận câu này. Người cho bất hiển, người cho là phỉ hiển Thỏa mãn toại nguyện. Xét cho cùng quá võ đoán, vớ vẩn chỉ bộ Âm Dương chưa đủ điều kiện ắt có và đủ như trong toán học. Thấy tốt ta mới kết luận tốt, xấu ta kết luận xấu. Đó là việc làm của các bàng tinh. Kể các câu phú dưới đây thuộc loại võ đoán. “NHẬT NGUYỆT Mệnh, Thân cư Sửu Mùi tam phương vô cát phản vi hung” “NHẬT NGUYỆT đồng lâm quan cư hầu bá” “THIÊN LƯƠNG, THÁI ÂM tác phiêu bồng chi khách.”Bửu Đình yêu cầu bạn mới làm quen học TỬ VI nên học thuộc phú vì nó là cơ sở giúp ta tựa vào, dựa vào và gợi nhớ một số tính cách của sao. Nhưng khi bạn giỏi rồi. Thì sao? Quên nó đi vất nó đi. Đứng vững trên đôi chân mình. Khi còn bé muốn đi phải vịn, đi được rồi thì vịn làm chi. Tại sao phải vịn, phải dựa, phải nhờ cậy… nếu làm ông to quan lớn đưa nước nhà vào vòng nô trước mắt tập an lá số bằng tay. Phải học thuộc phú vì nó là vốn liếng để đi buôn. Là công thức để ta dựa vào, có trình độ để đấu láo. Bài viết dừng tại đây, sau này sẽ thêm vào phần luận đoán qua 12 cung và hạn gặp. Và còn giới thiệu những lá số TỬ VI liên quan, nhưng hạn chết vì cách Âm Dương… bàng hoàng. Đó là lý do người viết bận bịu với phần mềm quản lý lá số, cần 3 cái nhắp chuột phải có lá số trước mắt. Học ở đâu? Học trong lá số.
mệnh âm dương sửu mùi